Chuyên đề công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại – hội nhập quốc tế

20/12/2015 11:02

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG QUỐC PHÒNG – AN NINH, ĐỐI NGOẠI NHIỆM KỲ 2010 - 2015

1. Những kết quả đạt được

1.1 Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nội chính

Trên từng lĩnh vực, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI đã đánh giá những mặt tích cực là:

Về quốc phòng – an ninh, đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng; quản lý điều hành của chính quyền về quốc phòng, an ninh được nâng cao.

-  Tập trung xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; xây dựng khu vực phòng thủ liên hoàn vững chắc và các kế hoạch phòng thủ cơ bản.Tiềm lực quốc phòng được quan tâm đầu tư, nhất là trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm.

Chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ, vận hành hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và công an làm trung tâm hiệp đồng; xử lý kịp thời các tình huống. Tổ chức diễn tập tác chiến phòng thủ, chiến đấu trị an đúng kế hoạch (cấp tỉnh 01 lần; cấp huyện: 8 lần; diễn tập chiến đấu trị an cấp xã, phường, thị trấn: 76 lần);  xây dựng, điều chỉnh, củng cố hệ thống văn kiện: tác chiến phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu, huy động và tiếp nhận lực lượng dự bị động viên, v.v… theo đúng kế hoạch.

Đầu tư xây dựng mới và duy tu, bảo dưỡng các công trình quốc phòng; quy hoạch xây dựng các thao trường đúng quy hoạch.

- Thực hiện xuyên suốt yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng quốc phòng, an ninh; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đến nay, đã đầu tư xây dựng và nâng cấp được 4 tuyến đường huyết mạch, quan trọng tại khu vực vùng biên, trong đó có tuyến đường giao thông nối từ Quốc lộ 14 ra cửa khẩu Đắk Peur, với tổng mức đầu tư 35 tỷ đồng; tuyến đường Quốc lộ 14C. Ngoài ra, các tuyến đường giao thông vào các đồn biên phòng, hệ thống đường tuần tra biên giới chuyên dùng cho công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia và an ninh trật tự khu vực biên giới đã được nâng cấp, nhựa hóa với tổng chiều dài 108 km.

Đầu tư quy hoạch, xây dựng các dự án ổn định dân cư khu vực biên giới và các dự án dân sinh. Đặc biệt là Dự án sắp xếp ổn định dân cư khu vực biên giới tại xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức với tổng mức đầu tư lên tới 358 tỷ đồng. Triển khai các chương trình hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống như: Chương trình 134, 135, Chương trình xây dựng nông thôn mới.

Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc kêu gọi đầu tư phát triển thương mại, du lịch - dịch vụ của các huyện biên giới, như: đầu tư xây dựng Cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thuận An (Đắk Mil) với quy mô 52 ha, tổng mức đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hơn 82 tỷ đồng, hỗ trợ đầu tư 3,2 km đường vào Khu du lịch Đắk Glun (huyện Tuy Đức), với tổng mức đầu tư hơn 10 tỷ đồng.

- Chất lượng chính trị các lực lượng vũ trang và dân quân tự vệ được nâng lên; thường xuyên được huấn luyện và trang bị về kiến thức, quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị, đồng thời nâng cao kỹ năng chiến đấu, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ.

Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đạt hơn 22%. Đạt và vượt tất cả các chỉ tiêu về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên. Tổ chức nghiêm túc công tác huấn luyện hằng năm theo đúng quy định cho gần 43.000 lượt chiến sỹ dân quân tự vệ; hơn 6.000 lượt quân nhân dự bị.

- Thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không để xảy ra biểu tình, bạo loạn chính trị, xâm nhập nhen nhóm hình thành tổ chức FULRO; triệt phá các băng, nhóm tội phạm, trong đó có một số băng, nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Các lực lượng quân đội, biên phòng, công an đã tổ chức tốt công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Trong giai đoạn 2010 – 2015, chúng ta đã bóc gỡ, triệt phá nhiều đường dây, cơ sở ngầm do Fulro gầy dựng, cài cắm trong nước; ngăn chặn âm mưu lôi kéo, thành lập các tổ chức phản động có yếu tố dân tộc, tôn giáo; ngăn chặn việc tán phát các tài liệu xấu, độc; kịp thời phát hiện và xử lý các đối tượng có hành vi lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị; khởi tố, xử lý theo pháp luật một số đối tượng có hành vi tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Từng bước ngăn chặn, kiềm chế gia tăng tội phạm, tạo sự chuyển biến tích cực về trật tự, an toàn xã hội. Lực lượng công an đã tổ chức 14 đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm và truy bắt, vận động đối tượng truy nã đầu thú; triệt phá được 325 băng, ổ nhóm với gần 1.500 đối tượng. Điển hình là đã khám phá thành công chuyên án TX1212, TX0613 đấu tranh triệt phá các băng nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen” ở địa bàn huyện Tuy Đức, kết quả đã bắt xử lý 179 đối tượng.

- Thường xuyên tổ chức các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng nhiều mô hình tự quản, điển hình tiên tiến trong công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở. Thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm; giữ gìn trật tự an toàn giao thông; phòng, chống cháy nổ và công tác cứu hộ, cứu nạn.

Các phong trào: quốc phòng toàn dân; toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới; toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã được đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động phù hợp đặc điểm, tính chất của từng địa bàn, lĩnh vực.

Đến nay toàn tỉnh đã thành lập được 760 tổ tự quản, 663 tổ An ninh nhân dân, 612 tổ hòa giải, đội dân phòng, và 221 câu lạc bộ tìm hiểu pháp luật. Từ phong trào  toàn dân bảo vệ ANTQ đã xuất hiện ngày càng nhiều những mô hình, điển hình tiên tiến trong đấu tranh phòng chống tội phạm như: Mô hình “Tự phòng ngừa, tự bảo vệ, tự hòa giải về ANTT” huyện Đắk Glong; “Tổ tuần tra bảo vệ Cà phê” của xã Đức Minh, huyện Đăk Mil; mô hình “Tiếng kẻng An ninh” thị trấn Đức An, huyện Đắk Song; Câu lạc bộ “Phụ nữ giáo dục con em không phạm tội” ở huyện Tuy Đức. Trên tuyến biên giới, đã xây dựng được 28 tổ tự quản đường biên, cột mốc; 86 tổ tự quản an ninh trật tự thôn, buôn.

- Sự phối hợp hiệp đồng giữa các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng với lực lượng vũ trang trong đấu tranh giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ngày càng chặt chẽ, thống nhất và có hiệu quả.

Nhận thức của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp về mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, phương châm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được nâng cao. Xác định rõ quan điểm của Đảng: “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”, từ đó quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng – an ninh trên địa bàn.

- Công tác bồi dưỡng, giáo dục quốc phòng, gọi công dân nhập ngũ được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo quân số.Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp được kiện toàn, củng cố để hoạt động ngày càng hiệu quả công tác quan trọng này.

Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho hơn 4.100 lượt cán bộ, công chức, viên chức thuộc các đối tượng 1, 2, 3, 4; gần 400 lượt chức sắc, chức việc các tôn giáo và hơn 86.000 lượt sinh viên.

- Lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục được củng cố, xây dựng vững mạnh toàn diện; dân quân, tự vệ “vững mạnh rộng khắp”; lực lượng dự bị động viên “vững mạnh, hùng hậu”, sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện tốt chính sách hậu phương đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

Kiện toàn tổ chức biên chế đúng, đủ theo quy định; thành lập tiểu đội dân quân thường trực tại các xã, phường trọng điểm về quốc phòng - an ninh. Thực hiện tốt việc phúc tra, đăng ký, quản lý quân nhân dự bị và sắp xếp biên chế vào các đơn vị dự bị động viên, đúng 100% chuyên môn quân sự. Xây dựng 100% đầu mối đơn vị dự bị động viên, sắp xếp quân nhân dự bị đạt 98,4% so với nhu cầu, tỷ lệ lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,57% so với dân số. Tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”.

- Bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới; tiếp tục triển khai thực hiện công tác phân giới cắm mốc.

Công tác phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam – Campuchia trên địa bàn Đắk Nông  đã cơ bản hoàn thành theo kế hoạch, góp phần bảo đảm tiến độ theo thỏa thuận hợp tác cấp cao giữa hai nước. Đến nay, đã xác định và cắm 8 vị trí/16 mốc, từ cột mốc số 48 đến 55; trong đó, có 3 mốc đơn (cột mốc số 51, 53, 55), 02 mốc đôi (cột mốc 49, 50) và 03 mốc ba (cột mốc số 48, 52, 54). Tiến hành đo đạc và phân giới trên thực địa đoạn biên giới giữa hai tỉnh Đắk Nông - Mondulkiri được chuyển vẽ trên bản đồ UTM tỉ lệ 1/50 000, có tổng chiều dài 121.158 m; trong đó, thống nhất ký kết biên bản 108.731 m, chưa thống nhất 12.427 m.

Về lĩnh vực nội chính. Hoạt động của các cơ quan tư pháp từng bước được đổi mới và nâng cao chất lượng; công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được chú trọng.

- Đã kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, quy hoạch cán bộ các cơ quan nội chính đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đề ra; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để thực hiện đúng lộ trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm  2020.

Cấp ủy và lãnh đạo các cơ quan tư pháp đã nhận thức đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của đơn vị mình trong cải cách tư pháp; từ đó đưa ra phướng hướng, kế hoạch công tác có trọng tâm, trọng điểm, để thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong từng giai đoạn cụ thể. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 49 được sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả đạt được và khắc phục những tồn tại hạn chế. Cơ cấu tổ chức bộ máy, chất lượng hoạt động tư pháp được nâng lên; cơ sở vật chất và phương tiện làm việc từng bước được trang bị, tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020.

Toàn ngành Công an có 11 điều tra viên cao cấp, 36 điều tra viên trung cấp và 75 điều tra viên sơ cấp. Có 05 đồng chí điều tra viên có trình độ thạc sỹ.  Viện kiểm sát nhân dân hai cấp có 25 Kiểm sát viên trung cấp; 42 Kiểm sát viên sơ cấp. Tòa án nhân dân hai cấp có 10 Thẩm phán trung cấp, 39 Thẩm phán sơ cấp.

- Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực hiện với chất lượng ngày càng được nâng lên.

Trong 5 năm qua, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử (gọi tắt là ba cơ quan) hai cấp đã tiến hành điều tra, truy tố và chuyển Tòa án thụ lý 4.010 vụ hình sự, với 8.375 bị cáo, đã xét xử 3.901 vụ với 8.119 bị cáo đạt tỉ lệ 97,3%.  Tòa án nhân dân hai cấp thụ lý 9.754 vụ, việc (về dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại, hành chính, lao động), đã xét xử 9.207 vụ, việc đạt tỉ lệ 94,4%.

Các lực lượng chức năng phát hiện, ngăn chặn và điều tra, xử lý nhiều vụ án nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; giải quyết ổn thỏa nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự ngay từ đầu và ngay tại cơ sở.

Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày một nâng cao, tỉ lệ giải quyết, xét xử các loại án luôn cao hơn tỉ lệ cấp trên giao từ 2-5%, nhất là cấp tỉnh (Tòa dân sự Tòa án nhân dân tỉnh năm 2013 xét xử đạt tỉ lệ 100%). Tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung qua các năm đã giảm xuống rõ rệt (năm 2005 - 2010, tỷ lệ án trả hồ sơ điều tra bổ sung dao động từ 5 - 7%, thì năm 2010 - 2015 đã giảm xuống còn 1,5% - 2,3%).

- Công tác thanh tra tập trung vào các lĩnh vực quản lý tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, giao đất, giao rừng; qua đó hạn chế tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương.

- Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm, tập trung rà soát, giải quyết căn bản các vụ khiếu nại, tố cáo kéo dài.

- Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được thực hiện bằng nhiều hình thức sinh động góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho toàn xã hội.

Tổ chức hơn 500 phiên tòa lưu động tại các địa bàn xảy ra tội phạm, địa bàn phức tạp để tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức quán triệt và thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thường xuyên kiểm tra, thanh tra thực hiện các quy định về kê khai tài sản; công khai, minh bạch trong quản lý chi tiêu, xem xét trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý một số vụ án về tham nhũng kịp thời, công minh, được dư luận xã hội đồng tình cao.

Trong giai đoạn 2010-2015 đã phát hiện 190 vụ, 288 đối tượng án kinh tế tham nhũng (trong đó có 7 vụ án tham ô, 02 vụ nhận hối lộ, 35 vụ vi phạm các quy định về quản lý, khai thác và bảo vệ rừng). Nổi bật là phát hiện, điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hành phát triển Việt Nam chi nhánh Đắk Lắk, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông và Ngân hàng Nam Á chi nhánh Hà Nội, chiếm đoạt hơn 1.050 tỷ đồng của Nhà nước.

- Tập trung đầu tư tổng kết, sơ kết rút kinh nghiệm về vi phạm, tăng cường thông tin, giáo dục, phòng ngừa trong cán bộ, đảng viên. Kịp thời điều chỉnh, thay thế cán bộ, sửa đổi, bổ sung quy chế, lề lối quan hệ, làm việc trong cả hệ thống chính trị.

1.1. 2. Trên lĩnh vực công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế

- Đảng bộ thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc và năng động đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước.

Về quan hệ đối ngoại với tỉnh Muldulkiril, Vương quốc Campuchia

Thực hiện ký kết hợp tác toàn diện với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia trên tất cả các lĩnh vực; hình thành khá rõ nét các kênh ngoại giao của chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội giữa hai tỉnh; biện pháp, hình thức đa dạng, phong phú, linh hoạt và sáng tạo; đã góp phần tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết giữa hai quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Đắk Nông đã ký kết với Muldulkiri Chương trình hợp tác phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2010-2015, gồm 17 nội dung trên 4 lĩnh vực chính như: xây dựng cơ sở hạ tầng; đầu tư thương mại, dịch vụ du lịch; nông- lâm nghiệp; văn hóa, xã hội và y tế; bảo vệ biên giới và an ninh quốc phòng. Trên cơ sở nội dung thỏa thuận, công tác phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau đã được hai tỉnh chú trọng thực hiện theo hướng đi vào chiều sâu, mang tính nguyên tắc cao, nên quan hệ hợp tác giữa hai bên ở nhiều lĩnh vực bước đầu đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Xuất, nhập khẩu giữa hai tỉnh đạt khoảng 5 triệu USD/năm. Các mặt hàng xuất, nhập khẩu chủ yếu là hàng công nghiệp, tiêu dùng, vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, phân bón hữu cơ sinh học, nông sản các loại. Hai tỉnh đã phối hợp khảo sát thực tế hệ thống chợ khu vực biên giới để phục vụ cho công tác lập quy hoạch mạng lưới chợ biên giới Việt Nam - Campuchia cũng như tổ chức các đoàn công tác sang thăm, làm việc, tiếp xúc giữa hai bên trong lĩnh vực phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ.

Trên cơ sở chương trình đã ký kết, 5 năm qua, tỉnh Đắk Nông đã hỗ trợ và hoàn thành, bàn giao cho tỉnh Mondulkiri 10 công trình thiết yếu[1]; hỗ trợ xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 với tổng kinh phí 2,5 tỷ đồng. Triển khai đấu nối công trình đường điện 22 kV cấp điện cho tỉnh Mondulkiri, trung bình khoảng  2.000.000 Kwh/năm …

Trên cơ sở sở đánh giá kết quả thực hiện, Đắk Nông tiếp tục ký kết Chương trình hợp tác giai đoạn 2015-2020, trong đó trọng tâm vẫn là phối hợp, cùng nhau phát triển khu vực biên giới hòa bình, ổn định; tiếp tục hợp tác chặt chẽ, sâu rộng trong lĩnh vực phân giới cắm mốc, đối ngoại nhân dân; đẩy mạnh giao thương hàng hóa và kết nối du lịch giữa hai tỉnh với khu vực.

Các hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế khác

Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong nhiệm kỳ qua các hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều tiến bộ.

Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã chỉ đạo thực hiện việc đa phương hóa các mối quan hệ với nhiều đối tác, địa phương các nước để thu hút các nguồn vốn đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội tỉnh; trong đó, tập trung là việc thiết lập quan hệ đối ngoại và tăng cường tiếp xúc và làm việc với các đoàn khách nước ngoài, các tập đoàn kinh tế - tài chính, khai khoáng quốc tế.  Từ 2011 - 2015 tỉnh đã thu hút thêm được 8 dự án ODA với tổng số vốn là 2.608 tỷ đồng; đang triển khai 3 dự án có mức vốn là 1.474 tỷ đồng;  thu hút 4 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 20 triệu USD, ngoài ra còn kêu gọi được 8 dự án NGO với tổng số kinh phí trên 8 triệu USD.

Xuất, nhập khẩu có mức tăng trưởng cao (gần 23%).

Bước đầu thiết lập và phát triển mối quan hệ với các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế, như: Ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng thế giới…

Nhận thức về hội nhập quốc tế được cải thiện trong lãnh đạo chính trị cũng như trong giới doanh nghiệp và nhân dân của tỉnh.

2. Những hạn chế

2.1 Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nội chính

Nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể.

Quan điểm kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh thực hiện chưa toàn diện trên một số nội dung như: trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa thực sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tổ chức, bố trí tiềm lực, lực lượng quốc phòng, tăng cường thế trận quân sự; việc xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự còn gặp nhiều khó khăn.

Tình hình an ninh biên giới, an ninh chính trị nội địa vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân ở một số địa phương chưa thực sự vững chắc. Các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ an ninh biên giới, quốc phòng toàn dân ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, an ninh nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước chưa được quan tâm đúng mức.

Nhận thức về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” của không ít cán bộ, đảng viên (kể cả cán bộ, đảng viên có chức vụ lãnh đạo, quản lý) còn mơ hồ, thậm chí sai lệch.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án chậm; việc giải quyết đơn, thư khiếu kiện về tranh chấp đất đai chưa được triệt để; còn tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp. Kết quả giải quyết một số vụ việc tranh chấp, khiếu kiện hiệu quả chưa cao. Việc phát hiện, xử lý các điểm nóng về an ninh trật tự có lúc chưa kịp thời.

Công tác tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa được thường xuyên, rộng rãi.

2.2  Trên lĩnh vực hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

Nhận thức về hội nhập quốc tế tuy có chuyển biến nhưng chưa đi vào chiều sâu, chưa trở thành hoạt động thực tiễn. Các hoạt động đối ngoại của từng ngành, lĩnh vực chưa có tính hệ thống, liên kết ngành và lĩnh vực. Các đơn vị, địa phương chưa xây dựng được chiến lược, chương trình, lộ trình hội nhập, chưa có các hoạt động chuyên đề về đối ngoại, nhất là ngoại giao kinh tế, chưa có cán bộ chuyên trách về công tác đối ngoại.

Hoạt động đối ngoại, hợp tác kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương; chưa thực sự chủ động trong việc khai thác, tìm kiếm thị trường, đối tác. Việc phát triển và mở rộng thị trường, nhất là thị trường nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Hoạt động ngoại thương nhỏ lẻ, chủ yếu là xuất thô, xuất hàng tiêu dùng, vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng có giá trị gia tăng thấp.

Các doanh nghiệp trong tỉnh phần lớn là vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm chưa đủ mạnh, thiếu kinh nghiệm trong hội nhập kinh tế quốc tế, phần lớn chưa có chiến lược phát triển nên còn bị động, chưa tận dụng các cơ hội để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.

II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 2015 – 2020

1. Dự báo những yếu tố tác động đến lĩnh vực quốc phòng – an ninh và đối ngoại

1.1 Dự báo tình hình chính trị thế giới và trong nước 5 năm tới.

Nhận định về tình hình thế giới và và đất nước những năm sắp tới, Trung ương nhận định[2]:

Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.

Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.

1.2 Những thuận lợi và thách thức tác động tới nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đắk Nông

Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI nhận định: “Trong bối cảnh, tình hình chung của thế giới, khu vực và nước ta, nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đắk Nông vẫn còn là một tỉnh nghèo, mới thành lập, chưa phát triển. Tỉnh còn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, đó là: hạ tầng kỹ thuật cơ bản, thiết yếu về kinh tế - xã hội còn yếu kém và chưa đồng bộ; trình độ phát triển, chất lượng và quy mô nền kinh tế còn nhỏ, yếu, năng lực cạnh tranh thấp; mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp so với nhu cầu phát triển.”

Từ thực tiễn địa phương và dự báo tình hình trong nước, quốc tế trong những năm tới, có thể nhận thấy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đắk Nông trong nhiệm kỳ 2015 – 2020 sẽ có nhiều thuận lợi, nhưng cũng sẽ đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.

1.2.1 Về thời cơ, thuận lợi

Thực tiễn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, và đối ngoại, hội nhập quốc tế. Vị thế ngày càng được nâng cao của đất nước trên trường quốc tế sẽ tạo điều kiện cho Đắk Nông có thời cơ, cơ hội để tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển nhanh hơn.

Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh mặt thuận là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng mang lại sự thuận lợi trong việc hợp tác, đối ngoại quốc phòng – an ninh để đối phó với các thách thức an ninh mới.  Xét theo mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh, có thể thấy, sự tăng trưởng kinh tế sẽ tạo điều kiện để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực kinh tế, quân sự, mà trước hết, là khả năng từng bước hiện đại hóa quốc phòng, hiện đại hóa các lực lượng quân đội và công an.

-  Việc bảo đảm lợi ích của đất nước về mặt kinh tế sẽ tạo điều kiện bảo đảm lợi ích của đất nước trên các mặt khác. Sự độc lập về kinh tế không chỉ là điều kiện bảo đảm cho sự độc lập về chính trị, xét trong mối quan hệ kinh tế với chính trị, mà còn tạo thế cho hoạt động đối ngoại, kể cả đối ngoại quân sự, quốc phòng. Nhờ đó, sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh mới trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, cũng như trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhất là việc gắn kết chặt chẽ hơn giữa các mặt kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong điều kiện các nước trong cộng đồng quốc tế có lợi ích kinh tế đan cài nhau, kéo theo sự đan cài về an ninh, tạo ra những khả năng để bảo đảm an ninh chung trong cả cộng đồng, thì vấn đề bảo đảm an ninh của chúng ta sẽ có được những yếu tố tích cực.

- Tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là dưới sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Cùng với đó, sự phát triển chung của kinh tế thương mại, dịch vụ, đầu tư… sẽ làm cho thị trường hàng hóa phục vụ quốc phòng, an ninh ngày càng phong phú hơn, tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ trao đổi, đầu tư, đổi mới công nghệ, từng bước hiện đại hóa trang bị vũ khí - kỹ thuật quân sự, tăng cường hiện đại hóa quốc phòng, hiện đại hóa quân đội, công an, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

Trên lĩnh vực đối ngoại, hội nhập quốc tế. Với việc Việt Nam sẽ tham gia ký kết và thực hiện ít nhất 15 hiệp định thương mại tự do với 57 đối tác, cơ hội để Đắk Nông hợp tác, phát triển về kinh tế, tìm kiếm vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đặc biệt là với những sản phẩm nông nghiệp là thế mạnh của địa phương như: cafe, tiêu, trái cây nhiệt đới, v.v...

Bên cạnh đó, khi tham gia vào các hiệp định bao gồm nhiều nước, như Hiệp định TPP, cơ hội để các doanh nghiệp tham gia vào một chuỗi cung ứng mới hình thành trong khu vực sẽ rất cao. Nếu các doanh nghiệp tận dụng được cơ hội để trở thành một thành tố, một mắt xích trong dây chuyền cung ứng đó thì khả năng phát triển sản xuất, vươn ra phạm vi toàn cầu sẽ lớn hơn nhiều so với việc tự tìm thị trường.

1.2.2 Những tác động không thuận và thách thức

- Các thế lực thù địch lợi dụng chính sách hội nhập quốc tế của nước ta để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Tham gia hội nhập quốc tế phải mở cửa từ thị trường đến luật pháp, đây là điều kiện để các thế lực thù địch xâm nhập, gây sức ép, đòi tự do đi lại trên các vùng chiến lược quân sự, đòi tham gia vào các dự án liên quan mật thiết đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và tìm cách đầu tư, đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Thông qua các dự án phát triển (ODA) và các tổ chức phi chính phủ (NGO) để thâm nhập sâu vào các vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào DTTS, khu vực biên giới để truyền đạo trái pháp luật, nắm dân và tuyên truyền chống phá Nhà nước ta. Tăng cường lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền  để chống phá, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, ly khai trong đồng bào dân tộc thiểu số;  tiến hành gây rối, gây bạo loạn, tổ chức vượt biên sang Campuchia.

- Tình hình an ninh chính trị, ngoại biên diễn biến phức tạp, khó lường. Hoạt động của các phần tử phản động trong nước tuy đã được kiểm soát, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số biểu tình, bạo loạn, vượt biên trái phép vẫn có thể xảy ra nếu chúng ta không phòng chống có hiệu quả.

Tình hình chính trị Campuchia diễn biến khó lường. Xu hướng kích động, chống Việt Nam, lợi dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ nhằm phục vụ mục đích chính trị của một số đảng đối lập ở Campuchia;  Quá trình tăng cường hoạt động đối ngoại kinh tế và các hoạt động của cư dân dọc biên giới;  và việc các thế lực thù địch được dung dưỡng, lợi dụng địa bàn Campuchia để tiến hành các hoạt động chống phá vào trong nước, v.v… sẽ có tác động phức tạp đến việc triển khai nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại của ta.

- Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội sẽ diễn biến phức tạp.  An ninh nông thôn tiềm ẩn yếu tố phức tạp, trong khi đó tình hình tranh chấp, khiếu kiện liên quan đất đai, những mâu thuẫn bức xúc trong nội bộ nhân dân nhiều nơi chưa được giải quyết triệt để. Kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, dân số tăng do nhu cầu lao động, việc làm, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh hơn, sẽ nảy sinh phức tạp về an ninh, trật tự; hoạt động của các loại tội phạm kinh tế, môi trường, tội phạm hình sự, ma túy và tệ nạn xã hội sẽ diễn biến phức tạp hơn.

Mặt khác, sự “phân phối” không đồng đều trong quá trình phát triển kinh tế có thể dẫn đến nguy cơ “rạn nứt” trong xã hội, thách thức sự ổn định và đồng thuận về chính trị - xã hội, ảnh hưởng đến việc củng cố, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

- Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Trong quá trình hội nhập quốc tế, do bị chế ước bởi những định chế chung nên tính phụ thuộc lẫn nhau sẽ ngày càng sâu sắc hơn, đe dọa đến sự độc lập về kinh tế, chính trị, làm gia tăng thêm tính chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giữa định hướng xã hội chủ nghĩa với xu hướng tự phát theo định hướng tư bản chủ nghĩa, gia tăng sự phụ thuộc của an ninh quốc gia vào an ninh khu vực, an ninh thế giới.

Chúng ta  sẽ phải đối phó với những nội dung mới về “an ninh toàn diện”, “an ninh phi truyền thống” đã xuất hiện và vấn đề “bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng - văn hóa và an ninh xã hội”. Vấn đề kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn những cuộc xâm nhập, “tiến công mềm” từ bên ngoài bằng các thủ đoạn thông tin trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, tội phạm công nghệ cao được đặt ra một cách gay gắt hơn.

2. Quan điểm, mục tiêu chung

2.1 Quan điểm

Cần nắm vững những quan điểm của Đảng về lĩnh vực quốc phòng – an ninh và hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế  sau đây:

- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân”; kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thống nhất cao về nhận thức và giải quyết hiệu quả trong thực tiễn quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giữa tăng cường quốc phòng, an ninh với xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại; giữa phát huy sức mạnh dân tộc với phát huy sức mạnh thời đại; tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đi thẳng vào hiện đại đối với những lĩnh vực, lực lượng trọng yếu; phát triển khoa học, công nghệ, công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm độc lập, tự chủ, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kiên trì, chủ động thực hiện các chủ trương giải pháp tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời chuẩn bị các nguồn lực đủ mạnh, các đối sách phương án chủ động, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.

- Tiếp tục phát triển, đưa quan hệ đối ngoại vào chiều sâu; nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, giương cao ngọn cờ hòa bình, chính nghĩa phù hợp vói những giá trị chung của nhân loại; giải quyết hài hòa lợi ích của quốc gia - dân tộc với lợi ích của các quốc gia trong khu vực, trên thế giới, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; tham gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề quan tâm chung, vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, đóng góp thiết thực vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Kiên định, thực hiện sáng tạo đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng phân tích, dự báo, xử lý đúng đắn các vấn đề quốc tế, các quan hệ đối ngoại. Mở rộng, đưa quan hệ hợp tác quốc tế vào chiều sâu, bền vững; kết hợp sức mạnh nội sinh của dân tộc được nâng lên trong quá trình đổi mới với sức mạnh mang tính thời đại của nhân loại yêu chuộng hòa bình, công lý, tiến bộ, tiếp tục nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, phục vụ hiệu quả yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

2.2  Mục tiêu

Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: ”Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội".

Về quốc phòng - an ninh, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI xác định mục tiêu là  “Giữ vững ổn định chính trị; đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội và đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.”

3. Các nhiệm vụ,  giải pháp cụ thể

3.1 Về quốc phòng – an ninh

Về quốc phòng – an ninh,  Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI xác định 4 nhóm nhiệm vụ,  giải pháp:

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, thích ứng với yêu cầu mới.

- Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của BCH Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; dự báo sát đúng tình hình, chủ động chuẩn bị các phương án xử lý có hiệu quả trước mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ.

Trên từng lĩnh vực cụ thể, trọng tâm là việc tiếp tục triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã được Tỉnh ủy  xác định, chỉ đạo trong Chương trình hành động  thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của BCH Trung ương (Chương trình  số 497-CTr/TU ngày 10/9/2014); và các chỉ thị, chương trình hành động của Tỉnh ủy  về công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, về chống âm mưu “diễn biến hòa bình”[3], v.v…

- Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của Đảng.

Coi trọng việc xây dựng bản lĩnh chính trị và lòng trung thành của các lực lượng vũ trang với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Tăng cường hiệu quả công tác bảo đảm;  chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần; nâng cao  chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu

Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật theo yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Chú trọng nâng cao trình độ, đạo đức, phẩm chất đội ngũ cán bộ công an, tích cực trong công tác tham mưu với Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

- Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, tuyệt đối không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt biên, xâm nhập.

Nhiệm vụ và giải pháp cụ thể là tăng cường bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, tập trung củng cố, xây dựng các tổ chức Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đấu tranh phê phán những biểu hiện nhận thức lệch lạc, mơ hồ, mất cảnh giác. Phát hiện, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn, không để kẻ địch thâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo cán bộ ta. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch, nhất là thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, "dân chủ", "nhân quyền" để chống phá nước ta. Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị.

Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

- Chủ động phòng, chống các loại tội phạm; đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội.

- Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết các tệ nạn xã hội.

Hai là,tập trung nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh; gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh.

- Đầu tư xây dựng các tiềm lực quân sự, chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ và dự bị động viên; chú trọng bồi dưỡng, giáo dục có hiệu quả kiến thức quốc phòng cho cán bộ và nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; bố trí, sắp xếp dân cư, xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn trọng yếu và khu vực biên giới.

Đây là một trong những vấn đề cốt lõi vừa mang tính định hướng cho phát triển, vừa là nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Điều này xuất phát từ quan điểm sử dụng sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Đây cũng là giải pháp thiết thực để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội cần được thực hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đến địa bàn cấp xã. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược.

- Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài.

Mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh, cảnh sát, tình báo và phòng, chống tội phạm. Trong đó, đặc biệt chú ý mối quan hệ với các lực lượng vũ trang, an ninh của tỉnh Muldulkiri, Vương quốc Campuchia.

Cần nắm vững quan điểm: mục đích của quan hệ đối ngoại quốc phòng, an ninh là tăng cường hoà bình, tin cậy, đoàn kết, cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

- Tập trung xây dựng 7 xã biên giới sớm đạt chuẩn nông thôn mới gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh; đảm bảo ổn định biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển.

Tích cực vận động nguồn vốn Trung ương đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho các xã vùng biên giới, cụ thể: dự án bố trí sắp xếp dân cư các xã biên giới Việt Nam - Campuchia trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đến năm 2015; dự án ổn định dân di cư tự do biên giới xã Quảng Trực huyện Tuy Đức (giai đoạn 2); dự án trọng điểm ổn định dân di cư tự do khu vực biên giới xã Thuận Hà, huyện Đăk Song.

Các huyện chỉ đạo việc thực hiện lồng ghép nguồn vốn các chương trình, các dự án khác, như: chương trình kiên cố hoá trường, lớp học theo Nghị quyết số 34/2013/NQ-HĐND ngày 19/12/2013 của HĐND tỉnh; phát triển giao thông nông thôn theo Nghị quyết số 10/2012/NQ-HĐND ngày 31/5/2012 của HĐND tỉnh; điện, nước sạch và vệ sinh môi trường; xoá nhà tạm cho đồng bào nghèo. Đặc biệt chú trọng phát huy nội lực trong huyện, xã giúp đỡ cho các xã biên giới xoá đói, giảm nghèo.

Tạo điều kiện cho các hộ nghèo vùng biên giới được vay vốn phát triển sản xuất và phát huy hiệu quả nguồn vốn vay. Tiếp tục hỗ trợ cho các hộ mới thoát nghèo phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao thu nhập, góp phần xoá đói, giảm nghèo ở địa phương mình.

Tập trung nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động mọi nguồn lực để đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên xây dựng các công trình giao thông chính từ thôn, buôn, bon đến trung tâm xã; các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ, kiên cố hoá kênh mương phục vụ phát triển sản xuất, đời sống người dân.

Ba là,làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, các hoạt động bổ trợ tư pháp, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Đa dạng về nội dung, hình thức đối với công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức tự giác chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.

Tăng cường công tác trợ giúp pháp lý cho người dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, không để các vụ việc phức tạp, kéo dài.

Bốn là, đẩy mạnh cải cách tư pháp, thực hiện tốt công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể thực hiện kiên trì, cương quyết, có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị.

- Thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức theo quy định, đẩy mạnh công khai, dân chủ, minh bạch, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể giám sát, phản biện.

- Thực hiện tốt việc giáo dục, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Tiếp tục nghiên cứu lĩnh vực, khâu yếu để tập trung đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn chuyển hóa về tư tưởng chính trị, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xử lý nghiêm hành vi tham nhũng, lãng phí.

- Giải quyết kịp thời tin báo, tố giác tội phạm, thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các cơ quan trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kiên quyết không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để thực hiện lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. 2 Về lĩnh vựcđối ngoại và hội nhập quốc tế

Trên lĩnh vực đối ngoại (bao gồm cả các hoạt động với các địa phương khác trong nước) và hội nhập quốc tế,  Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI xác định 5 nhiệm vụ,  giải pháp lớn, là:

- Một là, chủ động, tích cực mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực nhằm tạo ra cơ hội để kêu gọi hợp tác đầu tư, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, thu hút công nghệ mới, mở rộng trao đổi thương mại, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh.

Giải pháp chính là thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 22 NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế.

- Hai là, tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu, quảng bá hình ảnh tốt đẹp của Đắk Nông đến với bạn bè trong nước và quốc tế.

Chủ động đẩy mạnh việc mở rộng thiết lập các kênh đối ngoại. Chú trọng đối ngoại nhân dân, đối ngoại kinh tế với các địa phương nước ngoài, tiến tới kết nghĩa với những địa phương có khả năng hỗ trợ tỉnh phát triển các lợi thế, tiềm năng thế mạnh về khai khoáng, nông lâm nghiệp, du lịch sinh thái.

- Ba là, hết sức coi trọng mối quan hệ với tỉnh bạn Mondulkiri - Vương quốc Campuchia, xây dựng biên giới hai tỉnh hòa bình, hữu nghị; thúc đẩy thực hiện tốt những thỏa thuận đã ký kết về giao lưu kinh tế, văn hóa, đầu tư hợp tác giữa hai tỉnh.

Phát huy lợi thế, tiềm năng về thương mại - dịch vụ cửa khẩu Bu Prăng và khu kinh tế cửa khẩu Đắk Peur. Đây là lợi thế và tiềm năng cần phải được phát huy, phải xác định việc phát triển kinh tế biên giới, thương mại là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu trong 5 năm tới và những năm tiếp theo.

Vận động nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương (nguồn vốn hợp tác Việt Nam - Lào - Cămpuchia) giai đoạn 2016-2017 triển khai đầu tư Trạm liên hợp cửa khẩu Bu Prăng.

Quan tâm đầu tư cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Quảng Tâm, huyện Tuy Đức, tiếp tục hỗ trợ đầu tư các hạng mục cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp Thuận An, Đắk Mil để sớm đưa vào hoạt động, phát triển kinh tế vùng biên giới.

Phát triển mạng lưới thương mại tỉnh - huyện - cụm xã - xã và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia lưu thông hàng hoá, tạo động lực cho sản xuất, dịch vụ phát triển ở các xã biên giới.

- Bốn là, tích cực phối hợp với các viện nghiên cứu, các trường đại học xây dựng các mối quan hệ liên kết trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực khoa học công nghệ; đào tạo nguồn nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Hình thành quan hệ liên kết vùng một cách chặt chẽ giữa Đắk Nông với các tỉnh lân cận; với các tỉnh, thành miền Trung, Tây Nguyên và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm là, tăng cường mở rộng quan hệ với các cơ quan đại diện ngoại giao của các nước tại Việt Nam, với các tổ chức kinh tế nước ngoài có tiềm năng, mở ra các khả năng thu hút đầu tư, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tích cực tuyên truyền kiến thức về hội nhập quốc tế; nâng cao khả năng và hiệu quả hội nhập của tỉnh, nhất là các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh.

Nâng cao và thống nhất nhận thức của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, các doanh nghiệp và toàn xã hội về những thời cơ và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới để có sự chuẩn bị kịp thời, đặc biệt về năng lực thực thi cam kết và năng lực cạnh tranh, tránh để cơ hội biến thành thách thức. Tăng cường tìm hiểu thông tin về các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết.

Bên cạnh đó, tăng cường thiết lập và phát triển mối quan hệ với các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế, như: Ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng thế giới…để thu hút các nguồn vốn đầu tư vào tỉnh nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Phải có sự chuẩn bị thật tốt cho hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới, thông qua hàng loạt các giải pháp có hệ thống như: đổi mới tư duy, tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, hỗ trợ đào tạo đội ngũ doanh nhân có hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ thương mại quốc tế.

Chủ động đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường, kêu gọi đầu tư vào tỉnh.


[1] Cụ thể: Trường phổ thông dạy nghề dân tộc tỉnh Mondulkiri; Trụ sở làm việc Công an tỉnh Mondulkiri; Công trình nhà ở huấn luyện chiến sỹ Tỉnh đội Mondulkiri; Trụ sở Công an Huyện Orang; Trụ sở Công an Huyện Petchanda; Trụ sở Chỉ huy quân sự Huyện Orang; xây dựng 04 công trình giếng khoan và hệ thống nước sạch cho Đồn cửa khẩu Đắk Đam, Đồn Lâm Por, lực lượng bảo vệ biên giới tỉnh Mondulkiri)

[2] Dự  thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

[3] Như: Nghị quyết 05-NQ/TU, ngày 05-6-2006 của Tỉnh ủy “Về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở khu vực biên giới năm 2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020”; Chương trình hành động 30-CTr/TU, ngày 02-12-2008 của Tỉnh ủy “Về xây dựng Tỉnh thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc, góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, “Đề án xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cơ động, phòng không, pháo binh giai đoạn 2013 – 2017”, v.v…

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Chuyên đề công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại – hội nhập quốc tế
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO