Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912 - 1936)

25/07/2012 15:51

Tây Nguyên là một vùng cao nguyên lớn nằm ở phía Tây miền Nam Trung Bộ, với diện tích khoảng 8 vạn cây số vuông, bằng 1/4 diện tích toàn quốc. Tây Nguyên có các cao nguyên chính là cao nguyên Pleiku, Đắk Lắk, M’nông, Langbiang và Di Linh...

Phần 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬVÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BÙNG NỔ CUỘC KHỞI NGHĨA.

I. VÀI NÉT VỀ TÂY NGUYÊN TRƯỚC KHITHỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC.

Tây Nguyên là một vùng cao nguyên lớn nằm ở phía Tâymiền Nam Trung Bộ, với diện tích khoảng 8 vạn cây số vuông, bằng 1/4 diện tíchtoàn quốc. Tây Nguyên có các cao nguyên chính là cao nguyên Pleiku, Đắk Lắk,M’nông, Langbiang và Di Linh. Riêng hai cao nguyên Pleiku và Đắk Lắk là nơi cónhiều vùng đất đai rộng và bằng phẳng rất thuận lợi cho việc phát triển nôngnghiệp, vì thế, đây là nơi tập trung nhiều đồn điền chè, cà phê, cao su củathực dân Pháp. Tây Nguyên là vùng kinh tế giàu về tài nguyên, đất đai, nhânlực, có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, có mối liên hệ chặt chẽ, thuậnlợi với các tỉnh ven biển miền Trung, Đông Nam bộ và mở rộng ra các nước khuvực Đông Nam Á, trước hết là Lào và Campuchia.

Sau khi chiếm được vùng đồng bằng Nam Trung Bộ, thựcdân Pháp đưa quân tiến sâu vào vùng Tây Nguyên để đàn áp, cai trị các dân tộcthiểu số. Lúc này, xã hội Tây Nguyên nói chung vẫn đang ở trong giai đoạn tanrã của chế độ thị tộc bộ lạc. Nhưng trong những vùng nhất định, tuỳ theo điềukiện lịch sử và kinh tế, sự phát triển xã hội trong các dân tộc thiểu số ở TâyNguyên cũng hoàn toàn không giống nhau. Cho đến đầu thế kỷ XIX, trải qua hàngnghìn năm lịch sử, các bộ lạc Tây Nguyên ở các vùng trên vẫn tồn tại một cáchđộc lập. Đại bộ phận các bộ lạc đều sống tự do, bình đẳng với những quan hệ dânchủ trong các công xã nguyên thủy và những tù trưởng địa phương của mình. Nhànước phong kiến Việt Namtrải qua nhiều thời kỳ cũng không đủ sức đặt được sự kiểm soát của mình ở cácvùng Tây Nguyên. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, với chính sách “ràng buộc”, cácvua chúa phong kiến đã dần dần đặt được mối quan hệ giữa triều đình với một sốtù trưởng các dân tộc Ê đê, Ba Na… Các tù trưởng trên, hàng năm đều chịu triềucống triều đình Việt Namvà được triều đình thừa nhận quyền thống trị địa phương để họ trấn yên biêncảnh, giữ vững miền trung châu. Giai đoạn này, giai cấp phong kiến ở Thái Lanvà Lào đã nhiều lần âm mưu thôn tính các dân tộc Tây Nguyên và bành trướng thếlực đến các vùng giáp trung châu. Để bảo vệ cuộc sống độc lập của mình, đồngbào các dân tộc Tây Nguyên cùng với các tù trưởng của họ đã đánh bại những hànhđộng xâm lược của ngoại xâm.

II. THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM VÀÂM MƯU CỦA CHÚNG ĐỐI VỚI TÂY NGUYÊN.

1. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vàTây Nguyên.

Thực dân Pháp chiếm Việt Nam và các nước Đông Dương vào nửasau thế kỷ XIX, khi chế độ phong kiến trong vùng đã trở nên suy yếu. Triều đìnhphong kiến nhà Nguyễn từ chống trả yếu ớt đến nhượng bộ đầu hàng, thừa nhận nềnbảo hộ của Pháp.

Giữa năm 1889, tình hình ở miềnđồng bằng Nam Trung bộ đã tương đối ổn định, việc chiếm đóng miền Bắc TâyNguyên cũng đã hoàn thành, thực dân Pháp liền quay mũi súng xuống đánh chiếmcác vùng Nam Tây Nguyên. Giặc Pháp chia ra làm nhiều cánh quân từ đồng bằng NamTrung bộ thọc sâu vào cao nguyên Đắk Lắk, Lâm Đồng, đồng thời nhiều cánh quânkhác xuất phát từ miền Bắc Tây Nguyên đánh thốc xuống chiếm đóng Nam Tây Nguyên.Cuối năm 1889 đầu năm 1890, thực dân Pháp sau khi chiếm được những địa điểmquan trọng ở Nam Tây Nguyên, chúng liền tăng cường bắt xâu thuế, mở rộng căn cứvà củng cố lực lượng ở vùng này, đồng thời nhanh chóng thực hiện các chính sách bóc lột và cai trị đốivới đồng bào Tây Nguyên.

Về kinh tế, việc đầu tiên của chúng là pháttriển những đồn điền trồng cà phê, chè, cao su… và mở mang đường sá nối liềngiữa các vùng với mục đích phục vụ cho quân sự. Bên cạnh việc cướp đất lập đồnđiền, bắt xâu phục dịch, xâu thuế không ngừng tăng và thực dân Pháp còn đặt ranhiều loại thuế khóa như thuế voi, thuế đất, thuế súc vật, thậm chí cả thuếthân, thuế nóc nhà và bắt đồng bào phải nộp, ngày càng trở thành xiềng xích cộtchặt người dân miền rừng núi này vào các đồn điền và các công trường làm đườngsá, đồn bốt của bọn thực dân, đẩy các dân tộc đến cảnh nghèo đói, bệnh tật.

Về quân sự, âm mưu của Toàn quyền Đông Dương -Đume là thành lập những lực lượng vũ trang người bản địa làm công cụ đàn ápcách mạng và làm bia đỡ đạn cho chúng khi chiến tranh xảy ra. Chính sách bắtlính và chế độ xâu thuế của Đume, đã cướp đi số lao động khỏe nhất của các dântộc miền sơn nguyên Nam Đông Dương, là nguyên nhân chủ yếu đẩy các dân tộc vàocảnh “bị nhổ bật ra khỏi nương rẫy, đi đến cảnh bần cùng, nhiều khi là nạn đóivà nguy cơ của một nạn diệt vong dân tộc”.

Về chính trị, năm 1899,viên quan cai trị Bourgeois đã thành lập khu vực Ban Don với mục đích làm thíđiểm trong công cuộc bình định Cao nguyên Trung phần. Chủ trương, chính sách cai trị củaPháp tại Cao nguyên nhằm ngăn cấm đến mức tối đa sự tiếp xúc liên lạc giữangười sơn cước Việt Nam và người đồng bằng; nắm độc quyền khai thác Cao nguyênbằng cách tập trung mọi nỗ lực vào trong tay những vị đại diệnchính thức của Pháp; tách Cao nguyên ra khỏilãnh thổ Việt Nam.

Về văn hóa,giáo dục - y tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để hòngdễ cai trị vùng Tây Nguyên. Dưới chiêu bài “bảo vệ và phát triển các chủng tộcThượng”, hoặc “không đụng chạm đến văn hóa bản địa”, thực dân Pháp đã tạo điềukiện duy trì và khuyến khích phục hồi những hủ tục, mê tín dị đoan trong nhândân. Về y tế, việc điều trị chỉ được tiến hành nhỏ giọt ở thị xã, thịtrấn. Như ở tỉnh Kon Tum, đến năm 1928, bệnh viện chỉ có 1 y sĩ, 1 hộ sinh và 47giường bệnh, không thể giải quyết cho 36.357 lượt người đến khám chữa bệnh.

Cùng với những chính sách cai trị dã man,chế độ sưu cao, thuế nặng, áp bức bóc lột tàn nhẫn, thực dân Pháp đã biến nhữngngười dân chất phác, hiền lành thành nô lệ, phục vụ cho công cuộc khai thác TâyNguyên của tư sản Pháp.

Chính sách của Pháp đã vấp phải sự chống trả quyếtliệt của các dân tộc trên toàn miền sơn nguyên, các dân tộc miền sơn nguyên NamĐông Dương đã nổi dậy lẻ tẻ, hoặc liên minh phối hợp với nhau vùng lên chốnglại bọn xâm lược, đánh vào các đồn bốt và các cuộc hành quân của giặc; chốngthuế, chống xâu, hay lánh cư, bất hợp tác, không phục tùng.

2. Những cuộc đấu tranhđầu tiên của đồng bào dân tộc Tây Nguyên chống Pháp đầu thế kỷ XX.

Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phải chịu chung áchthống trị, bóc lột của thực dân Pháp như mọi dân tộc, tầng lớp nhân dân Việt <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam. Ngoài ra,đồng bào nơi đây còn chịu nhiều áp bức bóc lột nặng nề khác. Vì vậy, cuộc đấutranh chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập tự do của nhân dân Tây Nguyênđã bùng lên mạnh mẽ.

Ở Trung Trường Sơn - Tây Nguyên, năm 1900, đồng bàoBa Na và Chăm Hroi huyện Đồng Xuân tham gia đông đảo cùng nghĩa quân Võ Trứđánh vào Sông Cầu, sau đó tham gia đội nghĩa quân của Đế Nam, người kế tục VõTrứ. Năm 1902 - 1903, ở An Khê, cuộc nổi dậy của Thăng Mơ bao trùm nhiều làngBa Na trong khu vực. Từ năm 1889 đến năm 1905, dưới sự lãnh đạo của các thủlĩnh Ama Wal, Ama Khơl, Ama Jhao, N’Trang Gưh, P’tao Pui, Ol Mai, Đi Phai...hai dân tộc Ê đê và Gia rai liên tục nổi dậy chống thuế, chống xâu, chống bắtphu, cướp đất làm đường. Cuộc nổi dậy của N’Trang Gưh, người Bih chống tên côngsứ Buốcgioa (Bourgedis) là một cuộc đấu tranh vũ trang lớn (1900-1914). Cuộcnổi dậy của P’tao Pui, người Giarai, năm 1904, giết tên quan cai trị Ođăngđan(Odend’hal) đã gây một chấn động lớn trong chính quyền thực dân Pháp ở ĐôngDương. Công sứ Bacđanh (Bardin) ở Đắk Lắk và tên giám binh Vanhxilioni(Vincilion) đã huy động hơn 500 tên lính khố xanh và dân vệ đến để đàn áp.Henri Maitre cho biết đến năm 1912, diễn ra cuộc khởi nghĩa N’Trang Lơng, ngườiÊđê vẫn chưa nộp cho Pháp một xu thuế. Ở miền núiĐông Nam Kỳ, người S’tiêng vẫn chống lại những cuộc xâm nhập của Pháp.

Tổng kết tình hình miền sơn nguyênNam Đông Dương từ cuối thế kỷ XIX, khi tên Toàn quyền Đông Dương - Đume ra lệnhchính thức tiến quân xâm lược đến năm 1911, khi Henri Maitre, tên quan cai trịđã được giao nhiệm vụ chính thức xâm nhập cao nguyên M’nông, đã buộc phải thốtlên rằng: “Nhiều đồn bốt mọc lên, nhiều tỉnh được thành lập, nhưng rồi nhiềucái đã tan biến...”. “Có những người Pháp dũng cảm vẫn dấn thân đi vào đó (miềnsơn nguyên <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">NamĐông Dương), nhưng đã được đón tiếp bằng những trận mưa tên”.

III. N’TRANG LƠNG VÀ BƯỚC ĐẦU HÌNHTHÀNH CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG PHÁP TRÊN CAO NGUYÊN M’NÔNG.

1. Vài nét về đồng bào M’nông,S’tiêng trên cao nguyên M’nông Đắk Lắk.

Từ lâu đời, cao nguyên M’nông đã là quê hương của haidân tộc M’nông và S’tiêng. Một dân tộc chia thành nhiều nhóm khác nhau, mỗinhóm có một địa vực cư trú riêng. Người S’tiêng chia thành hai nhóm Bu Lơ và BuĐeh, phân bổ từ miền lưng chừng sườn phía Nam cao nguyên (Bu Lơ) đến miền đấtcao kế cận thuộc Đông Nam Kỳ (Bu Đeh). Người M’nông phân bố trên phần còn lạicủa cao nguyên, gồm các nhóm Biêt, Bu Nor, một bộ phận nhóm Rơhong phân bổ trênđất Campuchia, các nhóm Nông, Prông, Preh và một bộ phận nhóm Rơhong phân bổtrên đất Việt <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam.Người M’nông cư trú chủ yếu trên một vùng đất khá bằng phẳng của cao nguyên ĐắkLắk và Đắk Nông ngày nay, địa hình khá bằng phẳng, hơi lượn sóng, xen kẽ vớicác thung lũng, nhiều sông suối, hồ đầm, chung quanh bao bọc bởi núi cao… Địabàn cư trú của người M’nông là những cánh rừng tự nhiên mênh mông, nơi cung cấplương thực, thực phẩm dồi dào cho nhu cầu hàng ngày của đồng bào như: măng,nấm, rau rừng, tôm cá trong các khe suối, các loài chim, thú đa dạng. Đặc biệt,từ xa xưa, người M’nông đã có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng, biến chúngthành voi nhà, một phương tiện vận chuyển thuận lợi của đồng bào. Không chỉ cómối quan hệ vật chất với rừng, người M’nông từ xa xưa đã tự nhiên hình thànhmối quan hệ tinh thần, mối quan hệ văn hóa với rừng; rừng là mái nhà che chở,bao bọc người M’nông, là nơi ở của các vị thần linh mà người M’nông có thể khẩncầu sự giúp đỡ mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Có thể nói, tuy dân sốkhông nhiều, song người M’nông đã khẳng định một vị trí khá đặc biệt của mìnhbởi một nền văn hóa phong phú, đa dạng, truyền thống lịch sử đấu tranh kiêncường, bền bỉ với những phong trào đấu tranh chống xâm lược, giành và giữ nềnđộc lập cho dân tộc.

Người M’nông và người S’Tiêng là hai dân tộc láng giềng gần gũi từ lâu đời, là haidân tộc anh em có quan hệ nguồn gốc lịch sử nói chung, đến thời kỳ Pháp thuộcvẫn cùng một giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Ngôn ngữ M’nông vàngôn ngữ S’tiêng đều thuộc ngữ hệMôn - Khơ Me, cùng tộc hệ ngôn ngữ với các dân tộc như Mạ, Cơ Ho, Ba Na,Xơ-đăng v.v... Đối với đồng bào M’nông, trong quá trình lịch sử và cuộc sốnghằng ngày, họ đã sáng tạo ra được một số loại nhạc cụ độc đáo: bộ gõ có đànchiêng (cĩng), trống (Ding Gơr), đàn môi (guốc). Truyền thống văn hóa đồng bàodân tộc M’nông hết sức đặc sắc, gắn với hệ thống nghi lễ - lễ hội, liên quanchặt chẽ đến hệ thống thần linh và tín ngưỡng đa thần.Đặc biệt, đồng bào M’nông và S’tiêngluôn giữ được truyền thống bình đẳng, dân chủ, tương thân, tương trợ, tính cốkết cộng đồng.


2. Pháibộ Henri Maitre, âm mưu và tội ác đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Thực hiện kế hoạch đặt ách cai trịlên vùng đất phía Nam Tây Nguyên, thực dân Pháp tiếp tục đem quân tiến vào caonguyên M’nông. Cuối năm 1908, “Phái bộ khảo sát - hành chính Đông Cao Miên”được thành lập. Henri Maitre được chỉ định cầm đầu phái bộ này. Nhiệm vụ củaHenri Maitre là trong hai năm 1909-1910 phải hoàn thành điều tra khảo sát toànbộ cao nguyên M’nông và đặt được ở đây một nền móng ban đầu cho chính quyềnthực dân Pháp. Ban đầu, Henri Maitre chỉ có trong tay một lực lượng bảo an vàkhố xanh nhỏ gồm 9 tên, nhưng con số đã nhanh chóng tăng lên đến một trung độirút từ Buôn Ma Thuột và Xrây Ktum. Để thành công trong chính sách nô dịch vàbóc lột các dân tộc, hắn chủ trương thực hiện một phương sách hành động kết hợpmị dân với bạo lực, lấy bạo lực làm chủ yếu. Khi Henri Maitre kéo quân vào caonguyên M’nông, cao nguyên này đã nằm lọt trong một vành đai đồn bốt dựng lên từtrước. Chính với những lực lượng vòng trong vòng ngoài này, trong hai năm1909-1910, Henri Maitre đã tung hoành khắp cao nguyên M’nông thu thập tài liệuvà tìm cách nắm dân. Tháng 6-1910, Henri Maitre tuyên bố hoàn thành nhiệm vụđược giao. Sự thành lập hạt đại lý Pu Sra tháng 9-1910 và việc Henri Maitređược cử làm đại lý hạt hành chính này được bọn cầm quyền chóp bu ở Đông Dươngcoi là một thắng lợi to lớn của cuộc tiến quân vào cao nguyên M’nông. Nhưng đốivới người dân trên cao nguyên M’nông thì đó là kết quả của trăm nghìn hành độngtàn bạo của Henri Maitre đối với đồng bào, là nguyên nhân buộc hắn phải đền tộinăm 1914.

Sáu năm Henri Maitre có mặt trên cao nguyên M’nông(1909-1914) là những năm hắn gây ra những tội ác chồng chất, khủng bố giết chócnhững người chống lại hắn, đàn áp buôn làng họ; vơ vét, cướp bóc lương thực,xâu thuế nặng nề, hà hiếp dân của bọn tay chân của hắn. Căm phẫn trước nhữngtội ác chồng chất đó, nên khi N’Trang Lơng lãnh đạo phong trào nhân dân nổi dậyđánh đồn Pu Sra đã có mấy chục làng M’nông Biêt và Bu Nor tham gia hưởng ứng.Sau đó, một phong trào chống Pháp dấy lên rầm rộ khắp cao nguyên, lan xuống đếnvùng S’tiêng; vai trò là ngọn cờ chống Pháp trên cao nguyên đã được hai dân tộcM’nông và S’tiêng trao cho người anh hùng N’Trang Lơng.

3. N’Trang Lơng và cuộc chiến đấugiải phóng quê hương.

N’Trang Lơng sinh khoảng năm 1870,mất ngày 23 tháng 5 năm 1935, gốc là người M’nông Biêt. Vợ ông, bà Lal, cũng làngười M’nông Biêt, theo tập tục dân tộc M’nông, ông đến ở rể tại quê bà, mộtlàng M’nông Biêt - làng Bu Par, dưới chân núi Đrônh, ăn nước Đắk Đưr chảy xuốngsông Prêk Tê, cách Pu Sra khoảng hai ngày đường về phía Tây - Bắc.

N’Trang Lơng và bà Lal có với nhau bốn người con,người con gái đầu lòng tên là Trang, sau Trang là hai con gái: Hplang, Phiangvà một trai Rkang. Ông bà là người làm ăn cần cù, giỏi giang nên kinh tế khágiả, đời sống gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng rồi tai họa đã ập đến tổ ấm giađình ông bà từ đồn Pu Sra, mùa khô 1910-1911, vợ ông và Trang bị lính của HenriMaitre hãm hiếp. Để trả thù nhà, N’Trang Lơng bắt bọn chúng phải đền tội thìHenri Maitre tấn công vào làng của ông, bắt và tra tấn dã man bà Lal và Trangrồi bỏ chết đói. Giữa mùa khô sau đó, vào đầu năm 1912, ông nổi dậy trả thùnhà, tiêu diệt đồn Pu Sra thì Henri Maitre lại mở chiến dịch đàn áp khốc liệtcuối mùa khô 1912-1913, đốt sạch, phá sạch tài sản gia đình ông, dồn ông vàocảnh vong gia bại sản. Từ đó, ba người con còn lại của ông cũng bị đẩy vào cảnhphiêu bạt rồi mất tích. Đời vợ sau của ông là bà Pang, một bà góa có một con,gốc R’Hong, quê ở Bu Rơlâm, một làng R’Hong trước kia ở trên đầu nguồn sôngPrêk Chlong, nhưng sau nhiều lần du canh du cư đã đến cắm tại hữu ngạn trunglưu sông Đắk Huich. Đầu năm 1913, khi bị Henri Maitre truy lùng ráo riết nhằmtrả thù trận ông đánh sập đồn Pu Sra của hắn, N’Trang Lơng cùng một số nghĩaquân đã chuyển vùng đến nguồn Đắk Huich để lánh giặc, đồng thời gây dựng cơ sởmới, bắt nối lại phong trào ở vùng này. Ông đã gặp bà Pang và làm bạn với bàtrong khoảng thời gian này. Từ khi quê hương được giải phóng, ông về ở hẳn vớibà ở Bu Rơlâm và làm đầu làng của làng này. Đến khi ông cầm súng lên đường điđánh Pháp xâm lược trở lại cao nguyên, bà đã đi theo ông, trở thành người bạnchiến đấu của ông. Đến khi ông ngã xuống trước họng súng của quân thù tại BuPar, bà đã hy sinh bên cạnh ông.

Vị đầu làng Bu Par N’Trang Lơng bướcvào lịch sử giữa mùa khô 1911-1912, năm ông khoảng 40 tuổi. Từ đó, ông hiếndâng tất cả những năm tháng của đời mình cho cuộc kháng chiến chống xâm lượcPháp. Ngay cả trong những năm dài quê hương được giải phóng, tuy trở lại vớicuộc sống bình thường của một người đầu làng nơi quê hương vợ, nhưng từng lúc,từng nơi, khi tình hình cuộc chống Pháp lấn chiếm cao nguyên trở lại đòi hỏi,ông vẫn có mặt ở vị trí cần thiết, làm nhiệm vụ của người thủ lĩnh phong trào.Như vậy, N’Trang Lơng là một tấm gương tiêu biểu nhất về tinh thần thiết thayêu quê hương, về chí căm thù giặc Pháp xâm lược sâu sắc, về lòng dũng cảm và ýchí quyết tâm chiến đấu bảo vệ cuộc sống độc lập và tự do của quê hương tronglịch sử chống Pháp ở miền sơn nguyên Nam Đông Dương. Dân tộc M’nông rất tự hàovề người thủ lĩnh của mình. Từ năm 1912 khi ông mới đứng lên cho đến khi ôngphải dừng chiến đấu vào tháng 5/1935, lớp lớp người đầu làng M’nông, S’tiêng đãkế tiếp nhau đứng lên chiến đấu dũng cảm, ngoan cường.


Phần 2. QUÁ TRÌNH PHÁTTRIỂN CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA N’TRANG LƠNG (1912 - 1936).

I. GIAI ĐOẠN KHỞI PHÁT CỦA CUỘC KHỞINGHĨA N’TRANG LƠNG (1912-1913).

Bước vào những năm cuối thập kỷ1910, khi tiếng súng của phong trào Cần Vương đã không còn, hầu hết các cuộcđấu tranh của nhân dân Việt <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Namđã lần lượt thất bại. Trong khi đó, điểm nóng nhất của các phong trào chống đốicùng thời nhưng nằm ngoài phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế doHoàng Hoa Thám lãnh đạo cũng đang trải qua những đêm cuối cùng (cuộc khởi nghĩachấm dứt vào tháng 2/1913, khi Hoàng Hoa Thám hy sinh). Lúc này, ở vùng Caonguyên M’nông, dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng, cuộc khởi nghĩa của đồng bàoM’nông, S’tiêng bước vào giai đoạn khởi phát với trận mở đầu đánh vào đồn PuSra của Pháp.

N’Trang Lơng cùng các thủ lĩnh tiếnhành xây dựng căn cứ địa kháng chiến tại thung lũng rừng già Bu Siết (tức BuJeng Kiet hay Bu Jang Chet) giáp ranh với Bu N’Drung ở thượng nguồn suối Buk Xôthuộc núi Nâm Nung. Đây là cơ quan đầu não của nghĩa quân, với lực lượng từ 150– 170 tay súng thoát ly buôn làng. Phần lớn nghĩa quân là người M’nông Biêt vàM’nông Nông do N’Trang Lơng trực tiếp chỉ huy. Họ xây dựng lán trại, kho lương,nhà chứa vũ khí, đào hầm, cắm chông gài bẫy xung quanh căn cứ. Bên cạnh căn cứlà những nương rẫy trồng lúa, bắp, khoai của nghĩa quân. Bên cạnh N’Trang Lơng- vị thủ lĩnh tài ba, trong hàng ngũ nghĩa quân, còn có những thủ lĩnh khác nhưB’Heng Reng, R’Đing, R’Ong Leng, N’Xinh. Họ là những thủ lĩnh yêu nước, lànhững cánh tay đắc lực của N’Trang Lơng.

Trong quá trình chiến đấu chống thựcdân Pháp, hầu hết người M’nông, S’tiêng tích cực tham gia cuộc chiến chống kẻthù chung dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng. Nếu tính trung bình mỗi buôn cókhoảng 10 người tham gia nghĩa quân thì có thể ước tính lực lượng trực tiếpchiến đấu của N’Trang Lơng khoảng gần 5.000 người. N’Trang Lơng đã phiên chếlực lượng này thành hai loại: lực lượng trong buôn và lực lượng ra rừng; ngoàira còn có một lực lượng đặc biệt làm công tác tuyên truyền và thám báo. Về vũkhí, ngoài cung, tên, giáo, mác, rìu, xà gạc, thuẫn, dao găm, nghĩa quân chủlực còn có súng kíp, súng mút cơ tông lấy được của Pháp. Xung quanh căn cứ vàtrên những con đường địch hay di chuyển, nghĩa quân bố trí các loại bẫy, chônglợi hại nhằm tiêu hao sinh lực của chúng. Ngoài nghĩa quân chủ lực, các thủlĩnh khu vực thường điều động nghĩa quân địa phương của các buôn đi chiến đấu.Họ được trang bị vũ khí tự có và được N’Trang Lơng phân phát thêm súng tịch thucủa giặc Pháp.


1. Trận Pu Sra.

Sau quá trình N’TrangLơng vận động, tập hợp lực lượng hình thành nghĩa quân, tích trữ lương thảo vàxây dựng các căn cứ chiến đấu, đến đầu năm 1912, N’Trang Lơng quyết định mởcuộc tấn công đồn Pu Sra - Sở chỉ huy của Pháp.

Trận Pu Sra được các tàiliệu chính thức của Pháp thời bấy giờ miêu tả là một trận đánh tiêu biểu hoàntoàn thắng lợi của nghĩa quân. Số làng liên minh với N’Trang Lơng trong trậnđánh này khoảng vài chục làng, phần lớn là người M’nông Biêt và Bu Nor ở cácvùng nguồn Prêk Tê, Đắk Rpa và Đắk Plai. Diễn biến trận đánh đồn Pu Sra, trongđêm tối, dưới sự chỉ huy trực tiếp của N’Trang Lơng và các thủ lĩnh, khoảng 150đến 170 nghĩa quân cùng tiến sát đồn, diệt tên lính gác rồi ào ạt xung phong,dùng hỏa công thiêu rụi đồn Pu Sra, diệt được 13 tên địch. Trong đó, có tênBalat Mau, quyền trưởng đồn, người Cao Miên, khét tiếng gian ác cùng tên NđjrakOt, đầu làng làng Pu Sra, nổi tiếng là tay chân đắc lực của Henri Maitre cũngbị nghĩa quân trừng trị đích đáng.

Số thủ lĩnh đầu làng vàgià làng tham gia chỉ huy trận đánh bên cạnh N’Trang Lơng rất đông. Chiến thắngPu Sra làm nức lòng dân chúng và làm tên tuổi N’Trang Lơng vang dội khắp TâyNguyên, Ông trở thành con người vĩ đại của dân tộc M’nông bất khuất.

Chiến thắng Pu Sra nhưmột luồng gió mạnh thổi lên khắp cao nguyên M’nông, mở đầu một phong trào vũtrang nổi dậy chống Pháp mạnh mẽ. Đối với Pháp, Pu Sra thất thủ là một thất bạinặng nề. Việc cắm được đồn Pu Sra và việc thành lập được đại lý Pu Sra đượcchúng coi là một thành công lớn của phái bộ khảo sát - hành chính Đông CaoMiên, tức là của Henri Maitre, thì nay toàn bộ “sự nghiệp” đó đã bị nghĩa quânN’Trang Lơng xóa sạch.

2. Cuộc chống càn thắnglợi của nghĩa quân N’Trang Lơng mùa khô 1912-1913

Cuối năm1912, Henri Maitre trở lại cao nguyên M’nông với nhiệm vụ “trả đũa” N’TrangLơng vì nghĩa quân của ông đã xóa sổ đồn Pu Sra. Trong mấy tháng mùa khô năm1913, hắn liên tục hành quân lùng sục khắp vùng Biêt - Bu Nor, thi hành chínhsách đốt sạch nhằm dồn nghĩa quân vào cảnh đói cực và chết chóc trong núi rừng.Chính trong cuộc càn quét trả đũa này, Henri Maitre đã cho N’Trang Lơng, (theolời của hắn) “một bài học nên thân”, triệt phá nốt số ít gia sản còn lại củaông, đẩy ba người con còn lại của ông vào cảnh phiêu bạt rồi mất tích.

Bị Henri Maitre truylùng ráo riết, N’Trang Lơng đã tạm lánh vào vùng nguồn Đắk Huich và tiếp tụchoạt động ở đây. Nguồn Đắk Huich là một vùng có phong trào chống Pháp sôi sục,nhất là từ khi Henri Maitre mở những cuộc hành quân càn quét N’Trang Lơng ởphía Bắc. Người Rơhong ở đây có khoảng 25 hoặc 30 khẩu súng mua của nhữngthương lái từ phía sông Mê Kông đem tới. Vị đầu làng có uy tín nhất trong vùnglà Bu Luk Amprah, ông cùng với N’Trang Lơng bí mật tuyên truyền, vận động và tổchức đồng bào M’nông trong vùng đứng lên chống Pháp. Đầu năm 1913, Bu LukAmprah nhiều lần đem quân đánh, quấy rối đồn Xrây Ktum. Ông cũng vượt qua caonguyên Đồi Cỏ, lên phía Bắc đánh vào đồn Pu La mới thành lập. Henri Maitre đãtỏ ý e sợ và không ngừng trông chừng người thủ lĩnh đầu làng quan trọng này.Thực tế cho thấy, vị thủ lĩnh Bu Luk Amprah đã đóng góp quan trọng vào cácchiến công đánh Pháp của nghĩa quân N’Trang Lơng.  


II.NGHĨA QUÂN N’TRANG LƠNG LIÊN TỤC TẤN CÔNG, GIÀNH LẠI QUYỀN LÀM CHỦ TÂY NGUYÊN(1913 – 1915).

Bước sang năm 1913, trêncao nguyên M’nông, phong trào khởi nghĩa do N’Trang Lơng lãnh đạo đang bướcnhững bước tiến mới, chuẩn bị thế và lực liên tiếp mở những trận tấn công tiêudiệt địch.

1. Trậnliên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông.

Tình hìnhcao nguyên M’nông trong mùa khô 1913-1914 rất căng thẳng. Trên phần cao nguyênthuộc Cao Miên do bị Henri Maitre tàn phá trong chiến dịch trả đũa mùa khôtrước nên nhiều diện tích rẫy không làm được. Vụ thu hoạch cuối năm 1913 bịgiảm sút nghiêm trọng, kéo theo là một nạn đói trầm trọng trong cả mùa khô1913-1914. Trong khi đó, năm 1913, thuế thân tăng lên đến 7 đồng bạc Đông Dươngmột người. Đời sống của người M’nông Biêt, Bu Nor và R’Hong vì vậy rất khổ cực.Khắp phần cao nguyên này lại nổ ra những trận chiến đấu chống thực dân Pháp,phong trào xây dựng làng chiến đấu chuẩn bị chống giặc diễn ra rầm rộ, đặc biệtở nguồn sông Đắk Huich.

Đối với thực dân Pháp, lúcnày việc lập một lỵ sở cho hạt đại lý đã trở thành một việc cấp bách. Do đó,cuối tháng 2/1914, Galchiê và Henri Maitre đến Bu Mêra, một làng M’nông Nôngtrong lưu vực Đắk R’tíh để xây dựng đồn đại lý. BuMêra là một làng đông dân và khá giả, nằm trên bờ Búk Xô có vị trí chiến lượccơ động nhất trong lưu vực Đắk R’tíh và đối với toàn phần cao nguyên M’nông.Bao quanh có nhiều làng khác như Bu Jâng Chet (cũng gọi là Bu Xiêt), Bu Ya, BuPu (U) Min và Bu Nđrung. Hành động của chúng bị nhân dân trong khu vựcphản đối gay gắt.

Giữa tháng 6/1914, đồn Mêra bước vào thời kỳsắp hoàn thành. Lực lượng vũ trang của Henri Maitre đã tăng lên đến 25 lính khốxanh Trung Kỳ và bảo an Cao Miên; ngoài ra có 4 tên phiên dịch, cai culi và bồibếp, do một số tên đội khố xanh chỉ huy. Để bảo đảm hậu cần cho số quân đồn trúvà bọn nhân viên phục vụ, khoảng giữa tháng 6/1914, Henri Maitre đi Giring lấytiếp tế, hẹn sau 1 tháng sẽ trở về. N’Trang Lơng và hội đồng thủ lĩnh M’nôngNông quyết định nắm lấy thời cơ này để khởi sự.

Quyết định của hội đồngthủ lĩnh dưới sự lãnh đạo và chỉ huy của N’Trang Lơng là: ngày Henri Maitre vừavề đến Mêra, bất ngờ dụ hắn đi Bu Nor ngay, lấy cớ N’Trang Lơng đang uy hiếpmạnh các làng M’nông Nông đang chứa chấp hắn, hắn cần đến hợp lực với các làngđánh N’Trang Lơng. Mục tiêu trận Bu Nor là tiêu diệt Henri Maitre và một bộphận quan trọng lực lượng vũ trang của hắn. Mục tiêu thứ hai phải đánh liền sauđó là đồn Mêra, tiêu diệt nốt số lính còn lại, cướp đoạt vũ khí và lương thựcdự trữ.

Vị đầulàng Bu Jâng Chet là R’Đing vốn được Henri Maitre coi là một “đồng minh”, nênlà người có danh nghĩa nhất đứng ra kêu gọi Henri Maitre liên minh với ngườiM’nông Nông đi đánh N’Trang Lơng, và là người chủ trì lễ “kết minh”.

R’OngLeng và Bơ Rơi Njưng là chỗ Henri Maitre đã qua lại nhiều lần, được hắn coi làchỗ quen thân, được giao nhiệm vụ thay R’Đing đến gặp Henri Maitre kêu cứu, dụhắn đến Bu Nor để làm lễ “kết minh” trước khi xuất quân đi đánh N’Trang Lơng.Với tư cách là người đầu làng Bu Nor, R’Ong Leng sẽ phụ trách tổ chức lễ “kếtminh” và tiếp đãi Henri Maitre. Việc bảo vệ từ xa, đón đánh viện quân địch cóthể từ Ban Mê Thuột hay Krôchiê đến được giao cho người đầu làng làng Bu Bông.Khi trận Bu Nor đã kết thúc, R’Ong Leng có nhiệm vụ thu dọn chiến trường, cònN’Trang Lơng, R’Đing, Xning và Njưng hành quân cấp tốc đánh đồn Mêra vào ngàyhôm sau.

Đúng hẹnvà với một thái độ lạc quan, hoàn toàn yên tâm về người M’nông Nông “tuy cònđộc lập nhưng đã chịu khuất phục” ngày 24/7/1914, Henri Maitre từ Giring lênđường trở về Mêra, đến tối ngày 28 thì hắn về đến đồn. Thời điểm nghĩa quânmong đợi đã đến, khi Henri Maitre vừa xuống ngựa thì R’Ong Leng và Bơ Rơi Njưngđã chờ sẵn ở đồn, khẩn cấp kêu cứu, yêu cầu hắn xuất quân ngay phối hợp với cáclàng M’nông Nông đi đánh N’Trang Lơng.

Cuộc gặpchóng đi tới thỏa thuận lập một liên minh Pháp với người M’nông Nông chốngN’Trang Lơng, Henri Maitre quyết định xuất quân ngay sáng hôm sau. Bu Nor đượcchọn làm điểm hội quân và một lễ “kết minh” sẽ được tổ chức trước khi hai bêncùng ra quân. Bu Nor, như đã biết, là một làng của R’Ong Leng, và đây lại làlàng cửa ngõ đi lên phía Bắc và phía Tây vào các vùng M’nông: Biêt, Bu Nor vàR’Hong.

Sáng29/7, Henri Maitre lên đường đi Bu Nor với một lực lượng 15 lính khố xanh, cảbọn phiên dịch, cai culi và bồi bếp tháp tùng. Ba voi vừa mới từ Giring về,trong đó có voi của Nchuh, đều bị Henri Maitre điều đi luôn để chở đạn, gạo vàhành lý. R’Ong Leng đề nghị Henri Maitre không cần đem nhiều lính và Pactiđăng.Ông hứa sẽ cung cấp Pactiđăng cho hắn. Henri Maitre để lại giữa đồn Mêra chỉmột tên đội khố xanh và 7 lính với những thùng vũ khí mới đem ở Giring về.

HenriMaitre đến Bu Nor ngay chiều ngày 29/7, hắnđược R’Ong Leng tiếp đãi theo đúngphong tục mến khách của người M’nông.Lễ “kết minh” tổ chức ngay hôm sau, vào khoảng 8 giờ ngày 30/7/1914, tổchức tại nhà R’Ong Leng. Lễ chính thức là cúng giàng, làm một lễ hiến sinh lấynước phép rưới cầu may cho vũ khí. Vũ khí của cả đôi bên được chất thành đống,kể cả khẩu súng lục của Henri Maitre. Khi Lễ chính thức bắt đầu, hắn vừa đượcđưa cần rượu cho uống trước thì N’Trang Lơng bước đến bên cạnh, ông hỏi y mộtcâu có tính chất thách thức, và bằng một động tác chính xác, N’Trang Lơng rútdao ngắn đâm Henri Maitre một nhát trúng tim. Những nhát dao ngắn đâm tiếp theolà của các vị thủ lĩnh theo thứ tự quan trọng của mỗi người: Bơ Xing Rđing,R’Ong Leng, Bơ Ning Xning, Bơ Rơi Njưng. Đồng thời reo lên khắp nhà tiếng hô“Lơh! Lơh!” (Giết! Giết!). Nghĩa quân, cả đàn bà, nhảy xô vào bọn lính và taychân của Henri Maitre, diệt kỳ hết, trừ người nài voi Nchuh đi thả voi mới về,ngồi xa đàn lễ, nghĩa quân không thấy nên thoát chết và được giữ lại làm tùbinh.

Trậnđánh đồn Mêra diễn ra ngay sau trận Bu Nor,trưa ngày 31/7/1914. N’Trang Lơng đích thân chỉ huy trận đánh với sự tham giacủa Bơ Xing Rđing và Bơ Ning Xning. Vào lúc đứng bóng, đồn Mêra bị dân hai làngBu Mêra và Bu Jâng Chet tràn vào, không chỉ đàn ông mà cả đàn bà. Nghĩa quânhóa trang thành lính khố xanh với trang phục lột được ở Bu Nor, trà trộn trong dânvệ để lọt vào đồn. Trận đánh đã tiêu diệt số ít lính và chỉ huy còn lại trongđồn diễn ra một cách nhanh chóng. Đây cũng là một trận thắng trọn vẹn nữa củanghĩa quân theo đúng kế hoạch đã định.

TrậnBu Bông, trận thứ ba trong thế đánh liên hoàn, là một trận đánh nhỏ, diễn ranhư một ngẫu nhiên của lịch sử. Đây là một bằng chứng nữa nói lên sự đúng đắncủa phương án tác chiến đã vạch ra, lòng trung thành vô hạn của nghĩa quân BuBông đối với N’Trang Lơng, ý thức chấp hành nghiêm túc quân lệnh của vị thủ lĩnhở Bu Bông. Kết quả trận đánh, nghĩa quân đã tiêu diệt được một toán lính khốxanh của đại lý Buôn Ma Thuột áp giải tù đi Mêra.

Ngoàitrận liên hoàn Bu Nor - Bu Mêra - Bu Bông, nghĩa quân N’Trang Lơng đã lần lượttiêu diệt hai đồn Pu Klia và Pu Thông ở thượng lưu hai sông Prêk Tê và PrêkChlong, giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống đồn bốt của thực dân Pháp.


2. Trận Bu Tiên.

Bước vào mùa khô 1914-1915, thực dânPháp chủ trương mở một cuộc hành quân càn quét xuyên suốt cao nguyên M’nông từtây xuống đông, một mặt để tìm diệt N’Trang Lơng và nghĩa quân; mặt khác cũngthăm dò khả năng đặt lại sự có mặt của chính quyền Pháp một mức nào đó trên caonguyên.

Nhiệm vụ cuộc hành quân được giaocho tên công sứ Truphô (Trouffot) tỉnh Krochê với một tên quan một khố xanhMacgăng (Margand) làm phụ tá quân sự và tên đồn trưởng kiểm lâm Cuôcsăng(Coursante) làm người dẫn đường, xuất phát từ Xrây Chis đầu tháng 1/1915, nhằmhướng sông Đắk Ghbar (Tioba, gọi theo tiếng Khơme). Nghĩa quân do N’Trang Lơngtrực tiếp chỉ huy bí mật theo dõi, bám sát địch và nhiều lần đã đánh quấy rốichúng dọc đường. Đến chiều 14/1/1915, Truphô dừng chân trú quân trong một khenúi thuộc làng Bu Tiên, ở phía Đông Bắc Xrây Chis, cách Krochiê khoảng 60km vềphía Đông. Sau một đêm không trăng bao vây và phục kích toàn khu vực trú quâncủa địch, sáng sớm ngày 15/1/1915, nghĩa quân từ các phía trườn theo sườn núiđổ xuống đánh ập vào lều giết Truphô và Macgăng, tiêu diệt bọn lính không sótmột tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng, thu được bốn voi.

Trận Bu Tiên, là một trận tiêu diệthoàn toàn thắng lợi nữa của N’Trang Lơng và nghĩa quân của ông, góp phần khẳngđịnh ý chí, khả năng chiến đấu tiêu diệt địch, đồng thời, bẻ gãy ý chí xâm lượccủa thực dân Pháp trong một thời gian dài.

III. CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂNTHẮNG LỢI, MỞ RỘNG ĐỊA BÀN KHỞI NGHĨA (1916 - 1927).

Từ khi cao nguyên M’nông sạch bóng giặc Pháp, cuộcsống nơi đây dần trở lại nếp sống cổ truyền, nhưng đã phải trải qua những khó khănchưa từng thấy. Những hậu quả phá hoại kinh tế do Henri Maitre gây ra trongchiến dịch trả đũa đàn áp mùa khô 1912-1913 vẫn chưa khắc phục được thì naygiặc Pháp lại triệt đường tiếp tế muối, gây nên nạn lạt muối nghiêm trọng. Mộtsố thủ lĩnh của phong trào nảy sinh dao động, nộp cho giặc một số súng mà nghĩaquân đã cướp được. Để giữ vững phong trào, dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng(lúc này đã trở về với gia đình ở Bu Rlâm và đứng đầu làng này), nghĩa quân đãtiến hành một đợt thanh trừng bọn phản bội và bọn tay chân cũ của Pháp.

Do ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa N’TrangLơng, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên vùng cao nguyên Nam ĐôngDương đã lan rộng ra nhiều khu vực, đặc biệt nổi lên là phong trào chống Phápcủa người S’tiêng ở Bà Rá. Đầu năm 1925, vùng Bà Rá vẫn còn nằm ngoài tầm vớicủa thực dân Pháp ở đại lý Phú Riềng. Trước tình hình không chịu khuất phục củanhân dân S’tiêng, thực dân Pháp chuyển sang dùng quân sự đánh chiếm vùngS’tiêng Bà Rá. Cuộc xâm lược này được giao cho tên quan tư Cariê (Carrier) tiếnhành với sự tài trợ của các công ty đồn điền cao su ở Nam Kỳ, với sự phối hợpvà yểm trợ của các tên đại lý đồn trưởng các đồn Bu Đốp và Chlong Phlas cả vềquân sự và chính trị. Trong hai mùa khô 1925-1926 và 1926-1927, Cariê liên tiếpcàn quét vùng S’tiêng Tây Bà Rá, rồi vùng S’tiêng Đông Bà Rá; càn quét đến đâu,y cho làm đường đến đó. Mạng lưới đường y làm thọc sâu dần về phía Bắc vào vùngM’nông – S’tiêng. Do các cuộc càn quét ác liệt của Cariê, phong trào chống Phápcủa đồng bào S’tiêng khu vực Bà Rá tạm thời lắng xuống.

Đến đây, kết thúc giai đoạn (1916-1927) của cuộckháng chiến chống Pháp lấn chiếm cao nguyên trở lại của hai dân tộc M’nông vàS’tiêng. Với truyền thống chống xâm lược từ lâu đời, tấm gương chiến đấu và cácchiến công oanh liệt của N’Trang Lơng đã động viên và cổ vũ đồng bào M’nông vàS’tiêng tiến hành một cuộc chiến đấu anh dũng, giữ vững được phần lớn nhất đấtđai, bảo vệ tự do trên quê hương, góp phần cổ vũ sức chiến đấu chống thực dânPháp của đồng bào các dân tộc nhiều vùng trên Tây Nguyên, Nam Kỳ. Song, trướcmắt đồng bào là một kẻ thù tàn bạo, ngày càng mạnh và càng quyết tâm chinh phụctrở lại cao nguyên.

IV. ĐẤU TRANH QUYẾT LIỆT CHỐNG LẠINHỮNG THỦ ĐOẠN TÀN BẠO, NHAM HIỂM CỦA KẺ THÙ (1928-1936).

Năm 1928, thực dân Pháp lộ rõ âm mưuchính thức xâm chiếm trở lại cao nguyên M’nông. Cho đến lúc này, sức ép củaviệc khai thác đồn điền và xây dựng căn cứ quân sự chiến lược Tây Nguyên đã rấtcấp bách, mặt khác, chúng còn phải đối phó với sự nổi dậy đấu tranh mãnh liệtcủa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chúng đã nhận ra “kẻ thù đáng gờm nhất”trên các bước đường đánh chiếm miền cao nguyên đất đỏ là N’Trang Lơng, “từ sauvụ giết Henri Maitre (năm 1914), ông đã có một ảnh hưởng cực kỳ to lớn đối vớicác nhóm cư dân còn chưa chịu khuất phục trên miền cao nguyên”, chỉ khi diệtđược ông thì “mới gây được ấn tượng mạnh mẽ, có lợi cho cuộc xâm lấn...”. Vìvậy, đồng thời với tăng cường đàn áp đánh phá miền Bắc Tây Nguyên, chúng tậptrung ra sức tìm diệt N’Trang Lơng. Quá trình thực dân Pháp xâm lược trở lạicao nguyên M’nông là một cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt, một mất một còngiữa N’Trang Lơng và chúng.


Cuộc kháng chiến của nghĩa quân N’Trang Lơng từ năm1928 đến năm 1936, có thể chia giai đoạn này làm ba thời kỳ:

1. Thời kỳ từ 1928 đến giữa mùa khô1930-1931.

Thời kỳ này, thực dân Pháp mở đầu lấn chiếm caonguyên M’nông bằng phương pháp hòa bình, âm mưu đó của thực dân Pháp đã bịN’Trang Lơng kết thúc bằng trận đánh tiêu diệt tên đại lý Xnul vào tháng1/1931.

Mở đầu thời kỳ thực dân Pháp âm mưu lấn chiếm “hòabình” cao nguyên M’nông, chúng quyết định làm đoạn đường chiến lược 14 qua phầncao nguyên này thuộc đất Cao Miên để hoàn thành việc nối liền ba xứ và dùng làmđường hành quân bình định phong trào chống lại chúng; mặt khác, chúng quyếtđịnh thành lập tiểu đoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ, dùng làm công cụ đànáp các phong trào chống lại chúng trên vùng núi và cao nguyên chúng đã kiểm soátđược, chỉ huy sở đóng tại Buôn Ma Thuột, một lực lượng lớn đóng tại Buôn MaThuột trấn giữ cao nguyên M’nông, bộ phận còn lại đóng tại Kon Tum trấn giữvùng Bắc Tây Nguyên.

Tuyến đường 14 trên đất Cao Miên chạy qua một vùngM’nông cho đến năm 1928 vẫn còn là một vùng tự do hay vùng ly khai với Pháp. Đểyểm trợ cho công trường làm đường, thực dân Pháp ở đồn đại lý Xnul (Cao Miên)thường xuyên cho một lực lượng bảo an mạnh tuần tiễu dọc tuyến đường. Đồngthời, sự yểm trợ từ xa cũng được giao cho hai đồn đại lý Chlong Phlas (CaoMiên) và Bu Đốp (Nam Kỳ). Trong tháng 2/1928 và những tháng tiếp theo, hai đồnnày đã liên tục mở những cuộc hành quân phối hợp càn quét từ phía <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam lên theolưu vực Đắk Glun (đầu nguồn sông Bé) và các chi lưu của con sông này. Trước sứcép nhiều phía của quân Pháp, người R’hong và người M’nông trong khu vực tạmthời nằm yên hoặc lánh sâu vào rừng ly khai với giặc.

Trong tình hình đó, khi con đường 14 vừa lên tới đỉnhdốc đường phân thủy để đi vào cao nguyên Đồi Cỏ thì nghĩa quân N’Trang Lơng tổchức phục kích ngày 26/1/1931, tại La Pam, km 70 (kể từ biên giới Nam kỳ - CaoMiên), nghĩa quân đã đánh và tiêu diệt tên đại lý đồn trưởng Xnul kiêm chỉ huycông trường đường Gati (Gatille). Tin N’Trang Lơng và nghĩa quân diệt được Gatiđã có tác động như một hiệu lệnh làm dấy lên trên toàn cao nguyên một phongtrào chống Pháp sôi sục, bùng lên khắp nơi một phong trào dấp rừng, lập làngchiến đấu, chuẩn bị chống giặc, khí thế bừng bừng như thời kỳ đầu của cuộc khởinghĩa. Các công trình làm đường, các đồn điền của Pháp liền bị dìm vào cảnhthiếu công nhân và hoàn toàn tê liệt. Tình hình trên cao nguyên đã trở nên cựckỳ nghiêm trọng, làm kinh động cả bọn cầm quyền chóp bu ở Đông Dương. Từ đâydiễn ra một cuộc đối đầu thật sự giữa một bên là nghĩa quân N’Trang Lơng vàđồng bào M’nông và S’tiêng, một bên là tên toàn quyền Đông Dương Pie Paxkiê vàtên tướng Biôt (Billote), tổng chỉ huy quân đội thuộc địa Pháp ở Đông Dương vớilực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh to lớn của chúng, một cuộc đối đầukéo dài hơn 3 năm và đã kết thúc bằng thắng lợi của nghĩa quân N’Trang Lơng vàđồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

2. Thời kỳ từ giữa mùa khô 1931-1932đến giữa mùa khô 1933-1934.

Thời kỳ bọn thực dân Pháp chóp bu ở Đông Dương ra taytrực tiếp cầm quân, ba xứ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên phối hợp ra quân liên tụccàn đi quét lại cao nguyên M’nông, nhưng cuối cùng đã thất bại; đánh dấu sựthất bại này là hai trận đánh phối hợp của nghĩa quân N’Trang Lơng và nghĩaquân S’tiêng hai ngày đầu tháng 1/1934.

Mở màn của thời kỳ đối đầu này là những cuộc họp từtháng 2 đến tháng 8/1931 của P.Paxkiê và Biôt bàn về chủ trương và kế hoạch đưalực lượng quân đội thuộc địa của chúng vào đánh dẹp cuộc nổi dậy của ngườiM’nông và người S’tiêng dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng. Dưới sự chỉ huy trựctiếp của P.Paxkiê và của Biôt, đến tháng 10/1931, kế hoạch bình định cao nguyênM’nông của Pháp đã vạch xong. Mục tiêu của kế hoạch này là càn quét tiêu diệtN’Trang Lơng và nghĩa quân của ông kết hợp với việc đẩy mạnh làm đoạn đường 14từ Xrây Ktum (Cao Miên) đi Buôn Ma Thuột. Lực lượng để dập tắt phong tràoN’Trang Lơng là một tiểu đoàn quân đội thuộc địa làm chủ lực, một phân độikhông quân làm nhiệm vụ thám thính và oanh kích. Ngoài ra, các chi đội khố xanhBuôn Ma Thuột, bảo an của Bu Đốp và của Chlong Phlas dùng làm lực lượng phốihợp hay hỗ trợ tác chiến. Chúng sẽ tiến hành những cuộc càn quét ngang dọc theonhiều hướng khác nhau trên toàn bộ khu vực trong đường tròn khép kín từ Buôn MaThuột qua Kinda, Girinh, Võ Đắt (Trung Kỳ), Bà Rá, Bù Đốp (Nam Kỳ), Xrây Ktum,Chlong Phlas (Cao Miên).


Giữa mùa khô 1931-1932,vào tháng 12/1931, Biôt ra lệnh xuất quân. Ngay từ đầu, kế hoạch xuất quân đãphải điều chỉnh. Thay vì 6 cánh quân đã dự kiến cùng một lúc tung ra càn ngangquét dọc trên toàn địa bàn cao nguyên M’nông, Biôt chỉ tổ chức được ba mũi tiếncông: hai mũi theo hướng chính, tức theo trục con đường 14 tương lai, trong đómột mũi xuất phát từ Xrây Ktum (Cao Miên) và một mũi xuất phát từ Buôn Ma Thuột(Trung Kỳ), điểm tụ quân của hai mũi chính là ngã ba biên giới. Còn mũi thứ baxuất phát từ Bu Đốp (Nam Kỳ) là mũi theo hướng phụ, mục tiêu của mũi này làvùng trung lưu sông Đồng Nai - lưu vực Đắk R’tíh.

Cánh quân Buôn MaThuột do quan ba Maya (Maillard) chỉ huy, lực lượng gồm một đại đội của tiểuđoàn pháo thủ sơn cước Nam Trung Kỳ và một chi đội khố xanh của Buôn Ma Thuột.Cuộc hành quân của Maya từ bên kia bờ sông Sêrêpốk bị đồng bào Preh liên tụcđánh quấy rối. Xuất phát từ Ea Tul đầu tháng 1/1932, sau hơn một tháng lộirừng, cho đến ngày 12/2/1932, quân của Maya mới tới được Bu Jâng Đrâm, một làngM’nông trên hữu ngạn Đắk Đăm, cách Ea Tul chỉ khoảng 70 km. Tại Bu Jâng Đrâm,Maya đã cắm đồn đặt ngay đại lý Đắk Đăm, hòng khống chế vùng này và mở rộngkiểm soát vào vùng M’nông Nông tại Đắk R’tíh.

Cánh quân Xrây Ktumcũng xuất phát trong tháng 1/1932, nhưng muộn hơn cánh quân Buôn Ma Thuột, lựclượng gồm một đại đội quân thuộc địa, điều từ Phnôm Pênh tới và nhiều lính bảoan địa phương, tất cả do quan ba Ghiô (Guillot) chỉ huy. Cánh quân này đượcgiao nhiệm vụ càn quét trên một đoạn độc đạo của con đường 14. Trên đường đi,chúng bị nghĩa quân liên tục đánh phá, phải mất gần 9 tháng mới tiến được 75cây số, 40 lính chết, 200 bị trọng thương.

Còn cánh quân Bu Đốpgồm một trung đội lính bảo an Nam Kỳ do Giecbe (Gerbar) đồn trưởng kiêm đại lýchỉ huy cũng xuất phát vào giữa tháng 1/1932 và hành quân theo thượng lưu sôngBé để đi vào vùng Nâm Nung - Đắk R’tíh- trung lưu sông Đồng Nai. Cánh quân nàyđã bị đánh bật trở lại khi chúng vừa đặt chân lên vùng đất của người M’nôngNông.

Cuộc phản kích đầutiên của nghĩa quân N’Trang Lơng nổ ra giữa mùa khô 1932-1933 với lực lượng hơn200 người (tương ứng với hơn 20 làng liên minh) đánh vào đồn Gati, cứ điểm vệtinh lớn của đồn đại lý Lơ Rôlăng, cắm tại cây số 65 đoạn đường 14 trên đất CaoMiên. Trận đánh xảy ra ngày 6/1/1933, bằng tên nỏ và súng trường, một cánh quândưới sự chỉ huy trực tiếp của N’Trang Lơng đánh vào mặt đồn Gati. Đồng thời,một cánh nghi binh khác được bố trí để đánh diệt viện ở xa về phía Tây Nam, tại km 50.Cuộc tập kết của nghĩa quân bị lộ nên tên quan ba Bruynê (Brunet) chỉ huy tậpđoàn cứ điểm Lơ Rôlăng đã kịp thời điều quân tăng cường các đồn bốt dọc đường14. Cuộc tấn công của nghĩa quân không vì vậy mà kém phần quyết liệt. Lực lượngPháp ở Gati gồm có 60 lính khố đỏ, dưới sự chỉ huy của đồn trưởng Caxtel (Castel),bắn liên thanh ra rất dữ dội. Nghĩa quân rút vào các công sự đã đào sẵn, nổilửa đốt cỏ tranh quanh đồn đánh hỏa công. Trong khi chờ viện binh, quân Pháprút xuống hầm cố thủ, phản kích bằng lựu đạn phóng bằng súng. Quân cứu viện củaPháp do tên đội Lơcôngtơ (Lecote) chỉ huy, gồm 30 tên rút từ đồn cây số 55. Khichúng vừa tới cây số 58 thì bị nghĩa quân đón đánh, bắn hỏng chiếc ôtô chởchúng, buộc chúng phải hành quân lội bộ qua rừng. Đến cây số 62, Lơcôngtơ trúngchông bị loại ra ngoài vòng chiến đấu, phải khiêng đến đồn cây số 63 để cấpcứu. Từ đó Pháp phải dời đồn Gati lên đóng ở một điểm cao và xây dựng kiên cốhơn, có hầm hào và hàng rào dây thép gai vây quanh.

Sau trận đánh đó,những người M’nông Biêt và R’Hong đi theo N’Trang Lơng rất đông. Về phía thựcdân Pháp, chúng phản ứng quyết liệt, cho máy bay ném bom khủng bố hai làng BuThan và Bu Ju, gần Gati mà chúng nghi là nơi để nghĩa quân dùng làm chỗ tập kếttrước trận đánh. Hai tháng sau, chúng mở một chiến dịch lớn nhằm càn quét nghĩaquân, chặn đứng phong trào chạy theo liên minh với N’Trang Lơng. Địa bàn cànquét của chiến dịch lớn này là toàn bộ vùng R’Hong và vùng M’nông Nông. Lựclượng Pháp đưa vào các mũi hành quân càn quét gồm có 60 lính khố đỏ đồn Bu JângĐrâm do Huya chỉ huy, 60 lính bảo an đồn Bu Đốp do Giecbe chỉ huy và 60 línhkhố đỏ đồn Lơ Rôlăng do Bruynê chỉ huy, hình thành 3 mũi giáp công mở vào ngày15/3 nhằm vùng trung tâm của khu vực đang có phong trào đấu tranh mạnh mẽ. Cũngtrong chiến dịch này, Pháp dựng thêm hai đồn mới: đồn Bu Koh ở vùng M’nông –S’tiêng đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của đồn đại lý Bu Đốp, và đồn Met vẫnquen gọi là Bốt Met (Poste Maitre) gần ngã ba biên giới, tại giao điểm của bốnnhóm M’nông: Biêt, Bu Nor, R’Hong và Nông, dùng làm lỵ sở mới cho đại lý ĐắkĐăm, thay đồn Bu Jâng Đrâm, để trực tiếp khống chế phong trào của bốn nhóm này.

Đầu tháng 1/1934, haitrận đánh nổ ra liền nhau như hưởng ứng lẫn nhau: trận ngày 1/1 đánh vào đồn LơRôlăng do chính N’Trang Lơng chỉ huy, và trận ngày 2/1 đánh vào đồn Bu Koh củanghĩa quân M’nông – S’tiêng vùng khuỷu sông Đồng Nai. Tham gia trận đánh đồn LơRôlăng có tới 400 hoặc 500 nghĩa quân của khoảng 50 làng thuộc nhóm M’nông:Biêt, R’Hong, Bu Nor và Nông liên minh với N’Trang Lơng trong mùa mưa. Một bộphận nghĩa quân khi kéo đến địa điểm tập kết ở Bu Krak đã bị địch phát hiện. Vìvậy địch ở Lơ Rôlăng, một mặt đã kịp thời tăng viện bố phòng kiên cố, mặt khácmở một cuộc hành quân đánh đón đường. Một bộ phận của nghĩa quân đã lọt đượcvào đồn và xung phong mãnh liệt, nhưng rốt cuộc bị hỏa lực của địch quét mạnhnên nửa chừng phải bỏ dở cuộc tấn công.


3. Thời kỳ thứ ba cũng là thời kỳ cuối cùng từ giữa mùa khô1934-1935 đến giữa mùa khô 1935-1936.

Thựcdân Pháp tăng cường lực lượng, thống nhất chỉ huy ba xứ, liên tục vây quét khuvực đầu não của phong trào kháng chiến; cũng là thời kỳ N’Trang Lơng và các bạnchiến đấu của ông liên tục tiến công địch “quyết tâm bằng mọi giá đánh đuổiPháp một lần nữa ra khỏi cao nguyên”.

Bướcvào mùa khô 1934-1935, khắp cao nguyên, nhân dân M’nông và S’tiêng lại nổi lênrào làng, dấp rừng chống Pháp. Cuộc đối đầu ngày càng quyết liệt giữa nghĩaquân N’Trang Lơng và giặc Pháp.

Nổidậy sớm nhất, ngay từ đầu mùa khô, là các làng M’nông Biêt phía Bắc đồn LơRôlăng. Đây là những làng đã tham gia đánh đồn này hồi đầu năm “mưu giết tênđại lý Chlong Phlas”. Xa hơn về phía Bắc, cuộc nổi dậy của người M’nông Biêtcàng sôi sục. Giặc Pháp ở Chlong Phlas đã buộc phải mở một cuộc hành quân cànquét về hướng đó cho đến bờ sông Sêrêpốk. Ngày 4/3/1935, một đồn Pháp - đồnĐêhay (Deshsyes), đã được dựng lên ở vùng M’nông Biêt xa xôi, hẻo lánh cách LơRôlăng 82 cây số. Nhưng đồn này vừa dựng lên hôm trước thì ngày hôm sau đã nổra trận đánh lớn thứ hai của N’Trang Lơng vào đầu Lơ Rôlăng, trận đánh đã kinhđộng một lần nữa bọn cầm quyền chóp bu buộc chúng sau đó phải thay tướng, tăngquân.

Một phong trào chống Pháp lại bùng lên trên gần 80 câysố từ tây đến đông và 50 cây số từ nam tới bắc. Giặc Pháp truy lùng nghĩa quânráo riết buộc nghĩa quân phải không ngừng di chuyển, nhưng khi giáp mặt vớiquân thù, nghĩa quân vẫn chiến đấu rất anh dũng. Chính viên quan tư Nyô, kẻđang đối mặt với N’Trang Lơng cũng buộc phải nhìn nhận rằng: “Thủ lĩnh N’Trang Lơng hồi này đãchừng 50 tuổi nhưng vẫn rất khỏe mạnh... và hàng chục vị thủ lĩnh kiên cường,dũng cảm khác, tất cả đều quyết tâm bằng mọi giá đánh đuổi ta (Pháp) ra khỏicao nguyên Trung Tâm (cao nguyên M’nông) một lần nữa”.

4.N’Trang Lơng anh dũng hy sinh - phong trào khởi nghĩa đi vào thoái trào và kếtthúc.

Sautrận N’Trang Lơng đánh đồn Gati ngày 29/4/1935, thực dân Pháp thấy rõ bị uyhiếp mạnh, nên từ đầu tháng 5/1935 trở đi, chúng tung quân ra sức truy lùngnghĩa quân, bất chấp các cơn mưa đầu mùa xối xả, núi cao, rừng sâu. Trong hoàncảnh đó, N’Trang Lơng tạm lánh về quê cũ, ẩn náu trong một vùng rừng gần BuPar. Sự có mặt của ông ở đây đã bị tên phản bội Bơ Mpông Phê, chỉ điểm của Phápphát hiện. Bơ Mpông Phê vốn là đầu làng làng Bu Rtung và là một thủ lĩnh nghĩaquân thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa. Thời kỳ sau năm 1915, thời kỳ khó khăn trêncao nguyên, hắn đã giao động chạy theo giặc, nộp cho giặc một số súng mà nghĩaquân đã cướp được, nên bị nghĩa quân trừng phạt nghiêm khắc. Vào lúc N’TrangLơng bị hắn phát hiện thì một cánh quân của Nyô do tên quan hai Lơ Bel (LeBelle) chỉ huy với sự hiệp lực của tên Bêxret (Besrest), quan một bảo an ởChlong Phlas, đang ráo riết săn lùng ông, cách nơi ông ẩn náu khoảng một ngàyđường, Bơ Mpông Phê đã tìm Pháp, đưa chúng đến bao vây ông. Tại đây, diễn ratrận chiến đấu cuối cùng, bất ngờ và không cân sức, buộc ông phải chấp nhận.N’Trang Lơng mất sáng ngày 23/5/1935tại Bu Par, ít ngày sau khi ông bị Pháp bắn trọngthương trong trận chiến đấu cuối cùng tại làng này. Ông ngã xuống trong tay vẫncòn cầm khẩu súng theo ông chiến đấu đã hơn hai mươi năm; và lúc này vẫn cònnóng bỏng những viên đạn cuối cùng mà người anh hùng chống Pháp bắn vào đầugiặc.

N’TrangLơng hy sinh, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên cao nguyên M’nônglắng xuống, đi vào thoái trào nhưng ảnh hưởng của phong trào đã không ngừngvươn cao, vươn xa. Chỉ sau đó không lâu, phong trào đấu tranh của đồng bào cácdân tộc Đắk Nông nói riêng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, Nam Bộ nói chunglại bùng lên và lan rộng hơn trước, trong đó phong trào “Nước Xu” do Săm Brămlãnh đạo là một điển hình.


Phần 3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CUỘCKHỞI NGHĨA N’TRANG LƠNG (1912 - 1936) VÀ TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG BẤT KHUẤT CỦACÁC DÂN TỘC TÂY NGUYÊN.

I. Ý NGHĨA LỊCH SỬ.

Hơn 24 năm (1912 - 1936) đấu tranh kiên cườngchống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên và Đắk Nông cùngvới đồng bào M’nông, S’tiêng dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc N’Trang Lơngđã ghi những chiến công oanh liệt, buộc quân địch phải rút khỏi cao nguyêntrong một thời gian dài (1915-1928). Nghĩa quân đã tiêu diệt hàng trăm tênđịch, trong đó có những tên thực dân sừng sỏ như Henri Maitre, Truffot,Gatille, Margand... hàng ngàn súng ống, đạn dược và nhiều kho tàng phục vụchiến tranh của địch bị tịch thu hay phá hủy. Các giai đoạn của cuộc khởi nghĩakết thành một quá trình liên tục, diễn ra trên toàn địa bàn cao nguyên M’nông.Lực lượng chủ yếu của phong trào là các nhóm M’nông: Biêt, R’hong, Nông vàPrâng. Người S’tiêng hưởng ứng phong trào này từ đầu về sau trở thành một lựclượng đồng minh của nghĩa quân.

Có thể nói, đây là một phong trào chống Pháp có quymô lớn, địa bàn rộng, cuộc đấu tranh diễn ra hết sức quyết liệt, liên tục vàbền bỉ. Dưới sự lãnh đạo của N’Trang Lơng, phong trào chống Pháp đã nổ ra hơnmột phần tư thế kỷ. Trong thời gian đó, do ảnh hưởng của N’Trang Lơng, toànmiền sơn nguyên Nam Đông Dương liên tục mở ra nhiều phong trào chống Pháp khác,gây cho Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Tính cho đến giữa năm 1930, sau gần 80 nămxâm lược Việt Nam (1858), thực dân Pháp cơ bản chưa khuất phục được hết các dântộc trên miền sơn nguyên quan trọng này. Đó là một thất bại lớn của chúng, đồngthời là một thắng lợi lớn của phong trào N’Trang Lơng, một đóng góp vẻ vang vàosự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước Việt Nam vàCampuchia. Đóng góp vẻ vang đó đã được chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở hảingoại đánh giá cao: “Dân chúng người Lào, người Cao Miên, người Thượng, ngườiThổ... đang hăng hái chung vai sát cánh với anh em giai cấp người Việt Nam màchống đế quốc phong kiến..., ai ai cũng nhớ rằng từ năm 1933 đến nay, dân tộcThượng ở Đồng Nai Thượng (Trung Kỳ) không chịu đầu hàng đế quốc Pháp”.

Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng, đã thể hiện rõtinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của N’Trang Lơng và nghĩa quân củaông. Thật vậy, trong suốt gần 25 năm cuộc đấu tranh, bất kể hoàn cảnh chiến đấukhó khăn nguy hiểm như thế nào, ông và nghĩa quân luôn nêu cao tinh thần quyếtchiến quyết thắng, ý chí sắt đá không sợ hy sinh gian khổ, không đầu hàng thỏahiệp dù lực lượng của kẻ thù hùng hậu đến mức nào. Vì chính sách tàn bạo của kẻthù, N’Trang Lơng và nghĩa quân đã cầm vũ khí đứng lên chiến đấu. Kẻ thù cànghung hãn, tàn bạo, cuộc chiến đấu của ông và nghĩa quân càng kiên quyết, mãnhliệt. Khi ngã xuống, ông vẫn trong tư thế chiến đấu mặt đối mặt với quân thù.Chính kẻ thù cũng buộc phải thừa nhận tinh thần sắt đá và lòng tự tôn không gìlay chuyển nổi của ông. Như vậy, chúng ta khẳng định, chính tinh thần chiến đấukiên cường, anh dũng của N’Trang Lơng là nhân tố hàng đầu đã làm nên các chiếncông oanh liệt của phong trào chống Pháp do ông lãnh đạo; đưa phong trào đó lênvị trí là ngọn cờ chống Pháp chung của dân tộc ông cũng như của các dân tộckhác trên miền sơn nguyên Nam Đông Dương.


II. TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG BẤT KHUẤTCỦA CÁC DÂN TỘC TÂY NGUYÊN.

1. Tinh thần chiến đấu dũng cảm vàdẻo dai.

Tinh thần dũng cảm của đồng bào M’nông rất cao và phổbiến trong nhân dân. Cuộc sống ở rừng núi đòi hỏi họ - kể cả phụ nữ và trẻ con– luôn luôn phải được vũ trang và ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mặt khác, từngày xưa, do được rèn luyện trong các cuộc chiến đấu với các thị tộc bộ lạckhác, được giáo dục trong cuộc sống tập thể của công xã, nên sẵn sàng hy sinhcá nhân vì cộng đồng. Chính từ thái độ lạc quan không sợ chết đã dẫn đến tinhthần chiến đấu dẻo dai. Khi thực dân Pháp – kẻ thù của nhân dân Việt Nam nóichung cũng như đồng bào dân tộc M’nông nói riêng - được vũ trang bằng những vũkhí lợi hại nhất của thời đại văn minh, còn họ thì vẫn cung nỏ, giáo mác (tươngquan lực lượng chênh lệch rất lớn) nhưng họ vẫn sẵn sàng lạc quan chiến đấu,vẫn không chịu cúi mình đầu hàng.

Lịch sử đã từng chứng kiến bao nhiêu sự kiện anh hùngtrong gần 100 năm chống Pháp xâm lược của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Tinhthần chiến đấu dũng cảm và bền bỉ đó càng được nâng lên mạnh mẽ. Sức chiến đấuanh dũng, bền bỉ còn xuất phát từ tinh thần chịu đựng gian khổ trong cuộc sống.Từ xưa, những tai nạn đói gạo, đói muối, bệnh dịch, chiến tranh đã xảy ra liênmiên trên quê hương của họ. Bấy nhiêu thử thách ấy đã rèn luyện cho họ nghị lựcđể có thể sinh tồn. Còn trong thời kỳ Pháp thuộc, N’Trang Lơng và nghĩa quâncủa ông đã kiên nhẫn vượt khỏi nhiều hành động trả thù kinh khủng của đốiphương (giết người thân thích, đốt phá buôn rẫy, thiêu hủy lương thực, bắn giếttrâu bò, cấm vận chuyển muối…) để kéo dài cuộc kháng cự anh dũng ngót 1/4 thếkỷ, làm cho thực dân Pháp bao phen khốn đốn, khiếp sợ.

2. Tinh thần bất hợp tác với kẻ thù.

Đây là một nét khá nổi bật vềtruyền thống bất khuất của đồng bào Tây Nguyên nói chung và đồng bào M’nông, S’Tiêng nói riêng. Tinh thần đó không những được thể hiệnkhi chạm trán với kẻ thù mà còn được thể hiện ở nhiều mặt trong sinh hoạt saumỗi lần chống đối bị thất bại. Hoặc họ di cư đi một chỗ khác làm ăn và để tổchức phục thù, hoặc ở lại nhưng không chịu nộp thuế, đi phu cho giặc; hay thấphơn, chịu nộp thuế, đi phu cho giặc nhưng nhất định không chịu làm việc, khôngđi lính, không giao thiệp với chúng, không tiếp thu văn hóa của chúng.

Cuộc sống của đồng bào dân tộc trên cao nguyênM’nông, với lối sống tự do phóng khoáng, họ nhất định không để cho mình, côngxã mình, bộ lạc mình bị nhục, họ sẽ chiến đấu dũng cảm và bền bỉ đến mức bấtchấp cả tương quan lực lượng quá chênh lệch… Vì thế, họ kiên quyết bất hợp tácvới kẻ thù. Điều đó đã được lịch sử trong mọi thời kỳ chứng minh.

Tinh thần bất hợp tác với kẻ thùcủa đồng bào Tây Nguyên càng được bồi dưỡng và uốn nắn một khi ý thức dân tộcphát triển, khi họ rút được nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình chiến đấu vớikẻ thù. Trong quá trình đó, đồng bào càng sử dụng một cách linh hoạt nhất thứvũ khí vốn dồi dào của họ đối với kẻ thù mới - đế quốc Mỹ và tay sai - và ở mộtdiện rộng rãi nhất. Tinh thần bất hợp tác lúc này không thể hiện ở chỗ tránhmặt kẻ thù mà là đương đầu với chúng, quyết phen sống mái với chúng; không phảirời làng như đối với thực dân Pháp ngày xưa mỗi lần họ bị thất bại mà là kiênquyết giữ làng, từ chối không chịu để cho kẻ thù dỡ làng, bắt sống tập trungtrong những “trại dinh điền”, “khu trù mật” hay “ấp chiến lược”… Nói chung, từtrước đến nay, tinh thần bất hợp tác của đồng bào Tây Nguyên thể hiện ở mặt làmthất bại kế hoạch bình định bằng quân sự hoặc chính trị của kẻ thù. Tinh thầnbất hợp tác còn thể hiện ở mặt phá tan âm mưu nô dịch kinh tế và văn hóa củachúng: đấu tranh không làm việc, không đi lính, không nộp thuế cho Mỹ và taysai, không tiếp thu văn hóa đồi trụy của giặc; hoặc cao hơn, là rào làng khángchiến, là phá “ấp chiến lược”, biến nó thành làng kháng chiến.

3. Đoàn kết với các dân tộc kháctrong công cuộc chống kẻ thù chung.

Đoàn kết dân tộc là hiện tượng phổ biến, được hìnhthành từ lâu, có những yếu tố tích cực xuất hiện từ thời xa xưa và ngày mộtphát triển. Thực tế lịch sử cho thấy, đối với dân tộc Việt cũng như các dân tộckhác như Chăm, Khơ-me…, đồng bào Tây Nguyên vẫn tiếp tục những quan hệ bìnhthường vốn đã có truyền thống; hoặc để cho các lái buôn lui tới công xã, traođổi sản vật với nhau, hoặc kết nghĩa cá nhân với cá nhân và tham gia những cuộcbạo động, khởi nghĩa của nông dân người Việt, người Lào…, hay che giấu nhữngngười thuộc dân tộc khác trốn tránh lên cao nguyên. Cho đến thời cận hiện đại,không những chủ nghĩa tư bản đã phá vỡ hàng rào dân tộc mà chỉ riêng chế độthuộc địa cũng đã làm cho những dân tộc ở Đông Dương tuy khác về văn hóa, tiếngnói, nhưng lại cùng có một mối thù chung. Không phải ngẫu nhiên mà những cuộcnổi dậy chống Pháp của đồng bào Tây Nguyên thường liên quan đến các dân tộckhác như Khơ-me (Pucômbô), Lào (Phumybum)… Do đó, thực dân Pháp đã có ý ngăntrở không cho các dân tộc khác đi lại với vùng Tây Nguyên và ngược lại.

Đối với đồng bào Việt, đồng bào các dân tộc TâyNguyên không những chỉ có quan hệ láng giềng; trong ngôn ngữ và phong tục củangười Việt có những nét chứng tỏ rằng hai bên nếu không phải cùng chung tổ tiênthì ít ra cũng có sự giao lưu văn hóa mật thiết từ thời cổ đại. Và tình đoànkết giữa hai dân tộc cùng chiến đấu chống kẻ thù áp bức được nảy sinh từ thờitrung đại. Khi phong trào đấu tranh bùng nổ ở miền xuôi thì phong trào đó lạithường ảnh hưởng đến miền ngược, và dân tộc thiểu số ở miền ngược đến lượt mìnhhoặc vùng dậy hưởng ứng, hoặc có bộ phận tham gia vào khởi nghĩa miền xuôi,đồng bào Tây Nguyên đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn năm1771. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đồng bào các dân tộc TâyNguyên ít khi thiếu trong tổ chức kháng chiến chống Pháp do người Việt ở miềnNam Trung bộ hay Nam bộ lãnh đạo, chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa của TrươngQuyền phối hợp với nhà sư Khơ-me năm 1864, hay phong trào Cần Vương do Mai XuânThưởng đứng đầu…Sự đoàn kết của dân tộc Tây Nguyên với dân tộc chủ thể cũng nhưvới các dân tộc thiểu số khác để chiến đấu chống kẻ thù chung càng có quy môrộng hơn và mật thiết hơn nhiều từ lúc giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạocách mạng ở Việt Nam. Đồng bào dân tộc Tây Nguyên ngày càng nhận thấy chỉ cóquây quần dưới một đảng mác xít, sát cánh với đồng bào Việt mới thực sự giảiphóng mình khỏi mọi ách áp bức, đem lại cuộc sống tự do, bình đẳng, dân chủ vớicác dân tộc anh em, thực sự xây dựng một xã hội tiến bộ và giàu mạnh. Mặc chothực dân Pháp và đế quốc Mỹ cố tình chia rẽ, đồng bào Tây Nguyên trước sau vẫnmột lòng một dạ với cách mạng; truyền thống theo Đảng, theo cách mạng ngày càngđược củng cố trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912 - 1936)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO