Phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam

15/12/2016 10:44

Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng Công ước Luật Biển năm 1982 và có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước Luật Biển 1982; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Công ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Công ước.

ADQuảng cáo

Vịnh Hạ Long tuyệt đẹp thuộc Vịnh Bắc Bộ. Ảnh: Mai Anh

Từ trước khi Công ước Luật Biển 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy định liên quan của luật pháp quốc tế để xây dựng các văn bản pháp quy về biển. Căn cứ vào xu thế phát triển tiến bộ của luật biển quốc tế, năm 1977 Việt Nam ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam” xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, cho phép mở rộng quyền của Việt Nam ra biển, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Với Tuyên bố này, Việt Nam cũng như các nước Kê-nya, Miến Điện, Cu-ba, Y-ê-men, Đô-mi-nic, Gua-tê-ma-la, Ấn Độ, Pa-ki-xtan, Mê-hi-cô, Xây-sen được coi như những nước đi tiên phong trong việc đưa khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trở thành khái niệm có giá trị tập quán và sau này trở thành một nội dung quan trọng của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.

Việt Nam là quốc gia tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica. Ngay sau khi Công ước Luật Biển 1982 được thông qua, ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước. Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.

Nghị quyết phê chuẩn khẳng định chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982 và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế; yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được quy định bởi những nguyên tắc của Công ước Luật Biển 1982.

Vận dụng các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Ngày 21/6/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982, có tham khảo các thông lệ quốc tế và thực tiễn của các nước. Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương với 55 điều, đề cập đến các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng Biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển. Với việc thông qua Luật Biển, Việt Nam đã làm cho các quy định của luật pháp về biển của mình hài hòa với các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Việc Luật Biển Việt Nam khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 càng khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ pháp luật quốc tế, Công ước Luật Biển 1982, thể hiện quyết tâm của Việt Nam phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.

ADQuảng cáo

Trước đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật hàng hải Việt Nam sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2006, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam đã thông qua một số bộ luật khác liên quan đến quản lý và sử dụng biển như Luật Dầu khí (1993), Luật Tài nguyên nước (1998), Luật Bảo vệ môi trường (1993), Luật Biên giới quốc gia (2003), Luật Thủy sản (2004) và nhiều pháp lệnh, nghị định khác.

Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Chính phủ Việt Nam luôn bảo vệ những lợi ích hợp pháp của các đối tác nước ngoài trong hợp tác kinh tế, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các quy định của Công ước 1982. Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan trong việc bảo vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển khai các biện pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực hiện đầy đủ các quy định của Công ước Luật Biển 1982.

Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển là vấn đề luôn được Chính phủ Việt Nam hết sức coi trọng và đã được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý biển của Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau như: vận tải biển, dầu khí, nuôi trồng khai thác thủy hải sản và kiểm soát và tuần tra biển. Việt Nam cũng là quốc gia đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến liên quan khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển và đại dương, liên quan đến bảo vệ môi trường biển, chống nước biển dâng cao.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tìm kiếm và cứu nạn mà Công ước Luật Biển 1982 đặt ra cho các quốc gia ven biển, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn theo Quyết định số 780/TTg ngày 23/10/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm – cứu nạn người và phương tiện (tàu bay, tàu thuyền, thiết bị dầu khí… ) bị lâm nạn trên không, trên biển và vùng trách nhiệm tiếp giáp giữa Việt Nam với các nước. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của Công ước về Tìm kiếm Cứu nạn và đang chuẩn bị để đàm phán với các nước liên quan về phân định vùng tìm kiếm cứu nạn trên vùng biển.

(Còn nữa)

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO